Lấy Tâm Làm Gốc, Kiết Sử Do Đâu? Dừng Vọng Khởi Phân Biệt

 0
Lấy Tâm Làm Gốc, Kiết Sử Do Đâu? Dừng Vọng Khởi Phân Biệt

Hỏi: Người mới bắt đầu tu hành trong Phật Đạo, lấy gì làm gốc?

Đáp: Người mới tu hành trong Phật Đạo lấy “tâm” làm gốc.

Hỏi: Nếu “tâm” này là hư dối, lẽ nào lấy “cái hư dối” làm gốc?

Đáp: Vì nó hư dối, nên mới lấy nó làm gốc, để diệt trừ tận gốc cái hư dối này. Giống như một người chưa biết chữ, thì nhắm thẳng vào việc chưa biết chữ, quyết tâm học hành cho biết chữ. Giống như muốn làm sạch cỏ, thì phải nhổ tận gốc rễ của chúng… Sau đó, mới tính đến những việc khó hơn.

Hỏi: Làm thế nào để lấy “tâm” làm gốc?

Đáp: Tâm là cái gốc sản sinh ra các thứ hư vọng, tham lam, mong cầu không có điểm dừng. Mong cầu thành tựu thì thêm tham, không thành tựu thì sân hận, muốn chiếm đoạt, chìm đắm trong tham sân gọi là si mê. Tham, sân, si - Phật Giáo gọi là ba độc, ba độc này khi phát tác, sẽ khiến chúng sinh ưu bi khổ não.

Hỏi: Làm sao để thoát ra khỏi “ba độc” trên?

Đáp: Trước mắt, để cho ba thứ độc này không phát tác, chờ cơ hội tận diệt chúng, người tu hành phải biết khu trú, tức bao vây ba độc này để chúng nằm yên một chỗ. Giống như người bị rắn độc cắn phải làm chậm sự hấp thu của nọc độc về hệ thống tuần hoàn.

Hỏi: Đối với ba độc (tham, sân, si) làm chậm sự hấp thu đó như thế nào?

Đáp: Muốn ba độc nằm yên một chỗ, làm chậm sự phát tác của chúng, chờ sau đó điều trị, người tu hành phải xây dựng lối sống “thiểu dục tri túc”. Trong đó “thiểu dục” được hiểu là: Tâm ít ham muốn; “tri túc” được hiểu là: Ý biết đủ trong mọi hoàn cảnh.

Ít muốn biết đủ: Tâm bằng lòng với những gì đang có, ý không khởi tham vọng là cách tốt nhất ngăn chặn cơ hội “ba độc” phát tác. Sự độc hại của chúng sẽ biến tham, sân, si thành ưu bi, khổ não. Ít muốn, biết đủ, quan trọng trong giai đoạn đầu của người tu hành như thế nào? Kinh Di Giáo nói rõ điều này:

Nhược dục thoát chư khổ não, đương quán tri túc. Tri túc chi pháp, tức thị phú lạc, an ổn chi xứ. Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất tri túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệt bất xưng ý”.

Nghĩa là: Muốn thoát khỏi khổ não, ngay hiện tại phải biết quan sát để thâm nhập phép biết đủ. Biết đủ là “pháp” cho các ông tu tập trong lúc này. Biết đủ chính là nguyên nhân đưa đến tâm an ổn nơi hiện tại và giàu có trí tuệ ở vị lai. Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc. Trái lại, người không biết đủ, dù ở thiên đường cũng không vừa ý.

Hỏi: Xin nói rõ, quá trình này được diễn ra như thế nào?

Đáp: Tâm hư dối bị tác động của ba độc tham, sân, si theo nguyên tắc cung cầu. Trong đó “tâm” được ví như thị trường, “ý thức” được ví như nhà sản xuất. Khi tâm biết đủ, không vọng sinh các nhu cầu, thì ý thức sẽ dừng cung cấp các sản phẩm nghĩ suy nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tham, sân. Khi ý thức dừng cung cấp những sản phẩm độc hại làm phá hoại tâm này thì chừng đó người tu hành mới đủ bình tĩnh và sáng suốt để tiếp nhận Giáo Pháp một cách hiệu quả, không sai lệch.

Hỏi: Thế nào để tiếp nhận Giáo Pháp không sai lệch?

Đáp: Giáo Pháp của Phật giống như thuốc chữa bệnh. Đáng lẽ ra, “người bệnh” dùng thuốc này để giúp mình tiêu ngã, diệt trừ ba độc, chấm dứt si mê. Thế nhưng người này làm ngược lại, dùng Giáo Pháp như một món trang sức để thỏa mãn cái ngã, nuôi lớn tham vọng: học tập để hơn người, để làm thầy.

Chìm đắm trong tham vọng này, chẳng khác “dứt dòng le le, tiếp nối dòng cò”. Tiếp nhận Giáo Pháp trong tâm thế như vậy, Giáo Pháp sẽ bị người đó vô hiệu hóa, đôi khi phản tác dụng.

Tóm lại, khi nào người tu hành trong Phật Đạo chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa thiểu dục tri túc, để xây dựng cho mình bằng được “đời sống ít muốn, biết đủ; buộc hư vọng tâm phải dừng lại” thì chừng ấy hư vọng tâm và ý thức sẽ là những ông chủ bà chủ độc chiếm thân tâm; bắt các “căn” làm tôi tớ, mãi miết rong ruổi nơi tiền trần tìm kiếm các pháp để thỏa mãn tham vọng, không có hồi kết.

Phật Đạo gọi đó là: Mãi mãi trôi nổi (luân hồi) trong pháp giới (tâm thức) chúng sanh”.

- Không nhận thức đầy đủ để xây dựng đời sống ít muốn biết đủ, mà cố tình cột trói tâm này ở yên một chỗ bằng các biện pháp cưỡng bức để sanh các thứ thiền, khi dây trói bị cắt đứt, ba độc lại làm chủ và phát tác sự độc hại của nó mãnh liệt hơn...

- Suy tư để nhận thức đầy đủ một pháp rồi mới ứng dụng, chính là biện pháp phục hồi chức năng Chánh Tư Duy. Chức năng này đã bị người tu hành bỏ quên. Đây cũng là một trong những cách châm ngọn lửa trí tuệ vào cây đuốc Giáo Pháp đang ở trên tay, giúp soi sáng con đường đi đến Giác Ngộ.

- Thông thường, người tu hành chấp nhận Giáo Pháp theo lối mòn, người trước nói thế nào, người sau nghe thế ấy. Nhắm mắt làm theo, mà không sử dụng sức tư duy để phân định điều đã nghe là đúng hay Không suy xét đến tận cùng vấn đề, để có một nhận thức đầy đủ việc mình đang làm, đang tu tập. Điều này dẫn đến hậu quả là sau nhiều ngày tháng, khả năng tư duy sẽ bị thui chột, dẫn đến cả tin, mê tín.

- Cuối cùng là, rất khó chuyển thức thành trí để thâm nhập những ý nghĩa ẩn mật của Không thể thâm nhập ý nghĩa ẩn mật của kinh, cơ hội Giác Ngộ nhất định khó đến với những người này.

Giống như một người khi đi chỉ biết đi, khi đứng chỉ biết đứng, khi ngồi chỉ biết ngồi, khi ăn chỉ biết ăn, khi uống chỉ biết uống mà không nhận thức đầy đủ rằng: Tôi phải đi đến đâu? Vì sao tôi dừng lại? Tôi ngồi xuống bởi lý do gì? Ăn uống, ngủ, nghỉ, cũng đều như vậy. Nhất định những hành động trong trạng thái không nhận thức đầy đủ này khó có  thể chấp nhận rằng điều này sẽ dẫn đến trí tuệ và Giác Ngộ trong vị lai.

Tất nhiên, trong vài bài kinh, cũng có đề cập đến chuyện người tu hành làm như vậy, nhưng đây chỉ là biện pháp tình thế. Biện pháp bất đắc dĩ có ý nghĩa chữa cháy đối với hạng người ham ưa chuyện thị phi; thường nghe ngóng việc người khác, thích dòm ngó ra bên ngoài; thấy gì cũng muốn, nghe gì cũng ham; không dành trọn tâm ý để nhất tâm tư duy con đường Giải Thoát. Đối với hạng này, vị Đạo Sư phải buộc lòng chỉ định họ thực hiện hạ sách này. Biện pháp như vậy, không phải là cách tốt nhất áp dụng cho tất cả mọi căn cơ tu hành.

Hỏi: Sau khi đã xây dựng được đời sống ít muốn, biết đủ người tu hành cần làm gì tiếp theo để dứt sạch tham, sân, si?

Đáp: Việc cần làm tiếp theo để dứt tận gốc tham, sân, si (kiết sử) là: phải học tập Giáo Pháp để biết rằng kiết sử do đâu mà thành.

Hỏi: Xin cho biết, kiết sử do đâu mà thành?

Đáp: Kiết sử chỉ là hiệu ứng của tổ hợp căn, trần, thức duyên với nhau trong điều kiện mê muội. Có hai giai đoạn tổ hợp khi duyên nhau sẽ sanh kiết sử, đó là:

- Ý căn duyên nội trần rồi vọng khởi phân biệt, đem phân biệt của quá khứ về hiện tại, lôi kéo người tu hành làm theo sự sai khiến của nó.

- Sáu căn duyên ngoại trần và vọng khởi phân biệt trong hiện tại, khiến người tu hành bỏ mất bản tâm, chạy theo kiết sử, như con trâu bị con người cầm sợi dây dắt đi.

DỪNG “VỌNG KHỞI PHÂN BIỆT”

Hỏi: Như vậy, cho dù các căn duyên về quá khứ, hay duyên trong hiện tại, đều bắt nguồn từ vọng khởi phân biệt. Nếu chấm dứt vọng khởi phân biệt thì kiết sử không hiện chăng?

Đáp: Người không vọng khởi phân biệt, kiết sử sẽ không hình thành.

Hỏi: Có bao nhiêu cách để “dừng vọng khởi phân biệt”?

Đáp: Có nhiều cách giải quyết như pháp, giúp người tu hành dừng vọng khởi phân biệt.

- Cách thứ nhất: Hướng vọng phân biệt sang mục tiêu thắng diệu, để kiết sử không hiện. Ví dụ: khi tiếp trần, người đời vọng phân biệt để sanh kiết sử thì người tu hành làm ngược lại, dùng Giác Trí để phân biệt đúng sai, nhận thức đầy đủ “lỗi” và “họa” của kiết sử. Khi nhận thức đầy đủ lỗi họa của kiết sử, kiết sử sẽ không hiện. Cách làm này gọi là dùng thiện pháp chế ngự ác pháp”.

-Cách thứ hai: Biết rõ kiết sử hình thành chỉ là hiệu ứng của tổ hợp “căn, trần, thức” duyên nhau trong điều kiện phân biệt mê muội. Người tu hành này, thường xuyên “chặn đứng vọng phân biệt” từ ý thức. Đây là hình thức của phép tu Tam Ma Đề.

Giác Ngộ đầy đủ về Tứ Niệm Xứ: Giác ngộ rằng, thân này bất tịnh, chỉ là cái túi đựng thịt xương. Cảm thọ vui ít khổ nhiều, như người nghiện, đến nghiện sẽ khổ. Tâm này vô thường, sáng nắng chiều mưa, hết thương đến ghét. Pháp kia vô ngã, các quan niệm thế gian tự chẳng thường còn. Giác ngộ đầy đủ như thế, nhất định “vọng phân biệt không sanh”, kiết sử vĩnh viễn tịch diệt.

Vì sao Giác Ngộ như thế, vọng phân biệt không sanh? Vì thân, thọ, tâm, pháp là bốn nơi chốn mà người không Giác Ngộ thường hay lầm nhận về nó, rồi vọng phân biệt mà sanh tham ưu. Nếu không “lầm nhận” bốn món này,vọng phân biệt không tự hiện.

Giống như, người ta lầm nhận miếng thủy tinh dưới ánh sáng thành viên kim cương, rồi vọng sanh phân biệt, tham ưu mới hiện. Nếu biết rõ đó chỉ là miếng thủy tinh thì chẳng ai tội gì phân biệt lớn nhỏ, tốt xấu để sinh tham ưa mà chạy đi lấy nó bao giờ.

- Hoặc cao hơn nữa Giác Ngộ: “Thân đồng với hư không”, không có một chút giá trị. Cảm thọ chẳng ở trong thân, chẳng ở ngoài cảnh, chẳng ở chặng giữa căn và cảnh, chỉ do duyên hiệp mà thành, như hai bàn tay chà vào nhau sanh hơi ấm, dứt duyên liền diệt.

“Tâm” không thật có, chỉ là tên gọi, mà tên gọi thì không tánh, ví như người tên Giàu không có tánh giàu. Các pháp thiện ác, đúng sai, sang hèn trong đời không có chân lý… thiện nơi này ác nơi kia, đúng với chỗ này sai với chỗ khác. Kẻ giàu người nghèo chỉ so sánh với nhau bằng vật chất bên ngoài, mà trong tâm thức của họ thì vật chất không thể đến được, cho nên các pháp như thế gọi là chẳng thể được…

Giác ngộ chân thật như vậy thì “vọng phân biệt không hiện, người này có thể biến kiết sử trở thành Diệu Pháp.

Hỏi: Sau khi dứt kiết sử, vị tu hành này làm gì tiếp tục?

Đáp: Sau khi dứt kiết sử, trong lòng an vui, những ham muốn cơ bản coi như phần lớn tịch diệt.

Người này, căn đối cảnh không còn mê muội như xưa. Phật Đạo gọi đó là dứt Nhuận Chi Vô Minh, giống như một cái cây cao to đã bị chặt hết cành nhánh.

Phần việc còn lại, là cắt ngắn cây này cho thấp dần, sau đó đào tận gốc rễ để đem cái cây lên khỏi mặt đất, làm xong điều này, Phật Đạo gọi là dứt Căn Bản Vô Minh.

Bây giờ, cái cây trở thành những khúc gỗ. Từ khúc gỗ, người ta bỏ vỏ và giác cây. Phần lõi còn lại, để tạc thành một bức tượng như ý, người này tìm thầy để học nghề điêu khắc.

Khi trở thành thợ điêu khắc chuyên nghiệp, Phật Đạo gọi người này đã chấm dứt Vô Minh Trụ Địa.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 1
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG