Tam Ma Đề Như Huyễn và Tam Ma Đề Viên Thông

Hỏi: Xin cho biết, thế nào là Như Huyễn Tam Ma Đề1?
Đáp: Như Huyễn Tam Ma Đề là tên gọi của Phật Đạo nhằm chỉ cho cách thức, “dùng huyễn pháp để diệt huyễn tâm”. Vì huyễn tâm không thật nên pháp diệt tâm cũng không thật. Cái gì không thật, Phật Đạo gọi là “như huyễn”. Đã là huyễn thì “Tâm diệt, pháp vong” giống như thuốc chữa bệnh, bệnh đã khỏi thì không cần dùng thuốc nữa.
Hỏi: Nếu bảo rằng, tâm như huyễn, có nghĩa rằng giống như người ngủ chiêm bao, thì làm sao để diệt được chiêm bao. Và đã là chiêm bao cần gì phải diệt.
Đáp: Nói tâm huyễn, giống như chiêm bao. Đây là ví dụ, để người tu hành có thể hiểu ra điều gì đó chứ thật ra, huyễn tâm của chúng sanh không phải là một giấc chiêm bao ngắn ngủi như chiêm bao trong giấc ngủ.. Mà khi nào, chúng sanh chưa Giác Ngộ thật sự thì huyễn tâm luôn luôn tồn tại cùng họ.
Có thể ví dụ như người mất trí, khi nào người này trí óc chưa hồi phục, thì họ hoàn toàn sống trong tình trạng mất trí.
Do chúng ta lấy ví dụ là chiêm bao, nên nghĩ rằng, chiêm bao không thật, cần gì phải diệt. Nhưng nếu dựa theo ví dụ của người mất trí, có lẽ người nghe tức thì đi tìm thầy chữa cho hết căn bệnh nguy hiểm này.
Hỏi: Tâm đã huyễn, thì làm sao mà diệt. Thực tế trong đời, không thể diệt một cái không có thật. Giống như người ta không thể cắt đứt một cái bóng cây.
Đáp: Nói diệt huyễn tâm, là cách nói ngắn gọn cho dễ hiểu. Nếu đầy đủ, phải nói là: “Diệt những nguyên nhân sanh khởi huyễn tâm”.
Hỏi: Xin cho biết, do nguyên nhân nào, huyễn tâm sanh khởi?
Đáp: Nhận thức hư vọng và phân biệt hư vọng là nguyên nhân chính để huyễn tâm sanh khởi.
Hỏi: Xin giải thích cụ thể về hai việc trên.
Đáp:
- Nhận thức hư vọng, Phật Đạo gọi là hư vọng pháp. Ví dụ, trong thân này chỉ gồm có bốn đại chủng, mỗi đại chủng tự nó thanh tịnh. Nhưng do lầm nhận thân này có một giá trị nào đó, vì lầm nhận thân này có một giá trị nào đó, cho nên người kia mong ước những giá trị đó tồn tại vĩnh viễn cùng họ. Khi thân biến chuyển theo quy luật tự nhiên của nó, A không còn là A hoặc B không còn là B thì chính sự mất mát do biến chuyển này sẽ là nguyên nhân làm cho người kia sinh các thứ tâm ưu bi khổ não.
- Phân biệt hư vọng, cũng là một loại pháp hư vọng. Đây là thói quen huân tập lâu đời của nghiệp thức. Khi các căn xúc đối trần cảnh, năng phân biệt liền hiện. Khi năng phân biệt hiện, tâm đối đãi sẽ Tâm đối đãi sanh, hiệu ứng của nó là các cặp tâm như: ghét thương, phải quấy, hơn thua, được mất, tịnh bất tịnh, xuất hiện.
Các cặp tâm xuất hiện, sẽ làm người tu hành đảo điên, che mờ chân tánh. Ví như, thấy giàu sang sanh ưa, thấy nghèo hèn sanh chán ghét, thấy quyền thế mong thân cận, thấy cô thân muốn lánh xa. Những tâm thức như vậy, thường không đưa người đến an vui chân thật.
Hỏi: Xin hỏi, Tam Ma Đề Như Huyễn và Tam Ma Đề Viên Thông khác nhau chỗ nào?
Đáp: Tam Ma Đề Như Huyễn là nói đến nhân, Tam Ma Đề Viên Thông là nói đến quả.
Hỏi: Như thế nào, gọi là nhân, như thế nào gọi là quả?
Đáp: Nói nhân là sau khi Giác Ngộ ý nghĩa lỗi họa của phân biệt hư vọng, người này bằng mọi cách dừng phân biệt hư vọng. Khi phân biệt hư vọng không còn, gọi là đắc Như Huyễn Tam Ma Đề. Nói quả, là người kia sau khi dừng phân biệt, cùng nhận thức hư vọng, người ấy không rời cảnh giới này. Một lần nữa “trong không phân biệt” quay lại quán sát tâm này, chợt Giác Ngộ ra “bản lai một hữu tình không tâm”.
Giác Ngộ như thế, vị ấy kết luận, nay ta cũng không tâm. Trong lúc tu Tam Ma Đề mà Giác Ngộ được “bản chân”, gọi là Tam Ma Đề Viên Thông. Nói viên thông là từ nhân hữu vi mà Giác Ngộ quả vô vi.
Hỏi: Trước đây nói rằng, nhân hữu vi không thể được quả vô vi. Vì sao, nay lại nói khác?
Đáp: Trước đây, vì kẻ hạ căn mà nói rằng, nhân hữu vi không thể được quả vô vi. Nay, đối với hạng trung căn, nói rằng, nhân hữu vi, nếu khéo
Giác Ngộ, có thể thành tựu quả vô vi. Mai này, đối với bậc thượng căn, sẽ nói, hữu hay vô đồng là vô. Vị lai, tương ngộ bậc tối thượng căn sẽ nói rằng, hữu vi chẳng thể được, vô vi chẳng thể được.
Bất liễu nghĩa cùng liễu nghĩa là như thế.
Hỏi: Trong khi tu Tam Ma Đề, người này có sinh các thiền chi hay không?
Đáp: Trong quá trình tu Tam Ma Đề, khi phân biệt có khuynh hướng tạm dừng, theo nguyên lý sinh thiền, các thiền chi bắt đầu xuất hiện. Nhưng phần lớn người tu Tam Ma Đề không cảm nhận được thiền chi là vì tâm vị đó mạnh mẽ hướng đến mục tiêu dừng phân biệt nên cho dù có thiền chi nhưng cũng không cảm nhận. Giống như người ta chỉ chú tâm mạnh mẽ đến một điều gì đó, những sự việc xảy ra chung quanh không nhận biết.
Nếu sau khi dừng phân biệt, vị này đem “tâm không phân biệt” tầm tứ lại thân hay tâm này, các thiền chi sẽ hiện rất rõ rệt. Lúc này, phép Tam Ma Đề tu trước đây trở thành Đình Tâm Pháp (phép dừng tâm).
Hỏi: Sau khi đã dừng phân biệt, chấm dứt nhận thức hư vọng, tâm hoàn toàn tịch diệt. Phép Tam Ma Đề có còn được người này sử dụng nữa hay không
Đáp: Nếu hư vọng tâm tịch diệt hoàn toàn, thì không cần dùng nữa. Nhưng nếu, tập khí sinh tâm vẫn còn, thì phải tiếp tục dùng nó, cho đến bao giờ hoàn toàn Giác Ngộ Diệt Đế. Giống như người bịnh, khoẻ mạnh hẳn thì thôi, nếu còn “lương ương trong mình” phải nên tiếp tục dùng thuốc.
Hỏi: Vị này sau khi chứng Diệt Đế, không tâm, không pháp rồi, nên làm gì nữa?
Đáp: Học Trí Tuệ để viên thành Đạo Đế.
Hỏi: Học Trí Tuệ, có cần ngồi hay không?
Đáp: Cũng cần, cũng không cần.
Hỏi: Vì sao cần, vì sao cũng không cần?
Đáp: Nếu trong các oai nghi đi, đứng, nằm mà suy ngẫm cách mấy Trí Tuệ cũng không thông, nên tìm chỗ thanh vắng ngồi xuống chiêm nghiệm để cho thông. Nếu đã thông rồi, mà thân tâm này mệt mỏi, thì cũng nên ngồi xuống để hưởng dụng trọn vẹn “lạc thú Niết Bàn”, cái này Phật Đạo gọi là “tự thọ dụng”. Vả lại, chúng sanh phần lớn kính trọng, ham ưa người có oai nghi. Ngồi là một trong những oai nghi đẹp nhất. Vì thế Bồ Tát hay ngồi để chúng sanh sinh tâm ham thích gần gũi mà hưởng được lợi lành. Cho nên mới nói, học Trí Tuệ cũng cần, cũng không cần ngồi.
Hỏi: Kinh Đại Bát Nhã, Phật nói với Tu Bồ Đề đại ý: “Bồ Tát không có tâm, nhưng có Trí Tuệ như huyễn”, câu nói này nhằm vào nghĩa gì?
Đáp: Bồ Tát không tâm là nghĩa chân thật của Bồ Tát. Nếu có tâm thì Bồ Tát này chẳng khác phàm phu. Không tâm nhưng có huyễn trí, là vì Bồ Tát này chưa thành tựu chân trí, nhưng đã học được các môn huyễn phương tiện của chư Phật.
Nếu Bồ Tát này thấy được chân tánh, thành tựu chân trí, bây giờ chân tánh và chân trí như mặt trời và ánh sáng, như ánh sáng và sức nóng, chỗ chẳng hai này, người tu hành gọi nôm na là Pháp Thân, là Phật Tánh, là Phật Trí. Vì thế, Pháp Thân, Phật Tánh, Phật Trí là thường. Cho nên, khi luận về huyễn trí, Kinh Đại Bát Nhã có nói đến tương tợ Bát Nhã.
Bát Nhã và tương tợ Bát nhã là do luận về chân trí hay huyễn trí. Liễu nghĩa và bất liễu nghĩa cũng nhân nơi đây mà thầm hội. Vì thế, đối với Nhị thừa chứng thiệt tế phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, Phật tuyên nói Phật Tri Kiến mà không nói Phật Trí. Nhị thừa không chứng thiệt tế, nhưng có được huyễn trí, Phật dạy tương tợ Bát Nhã Ba La Mật.
Hỏi: Kinh nói: “Trực tâm là đạo tràng”. Trực tâm này có giống những người trực tâm ở đời, ăn ngay nói thẳng hay không?
Đáp: Hai chữ trực tâm trong câu nói “trực tâm là đạo tràng” không giống trực tâm của người đời.
- Trực tâm là đạo tràng, có nghĩa một tâm thẳng đến vô thượng; một tâm thẳng đến vô thượng có nghĩa không đem tâm chạy vào pháp thế gian. Người tu hành nào, mọi lúc, mọi nơi, mọi thời đều chỉ có một tâm thẳng ngay đến đạo quả vô thượng, tâm đó chính là đạo tràng tốt nhất trong các thứ đạo tràng mà người tu hành dựng lập.
- Còn người đời trực tâm, tâm này không thể dùng làm đạo tràng tu hành trong Phật Đạo được. Vì trực tâm đó là tâm thẳng ngay ở đời, y nơi thế pháp mà gọi là trực. Tuy nhiên, những người ở đời có trực tâm, một khi dấn thân tu hành, dễ thành tựu hơn những người tâm tánh quanh
Hỏi: Tâm và pháp, cái nào có trước? Tâm sanh pháp hay pháp sanh tâm?
Đáp: Câu hỏi này, giống như câu hỏi ở đời: “con gà có trước, hay quả trứng có trước”. Những người thường nghiền ngẫm câu hỏi vô bổ này, hoặc những câu tương tự như thế, nhất định họ “trứng còn không có, nói chi đến gà”. Trong Phật Đạo cũng vậy, người tu hành không nên cất công tìm hiểu những thứ vô ích như “tâm và pháp cái nào có trước”. Mà thái độ của kẻ trí là khi biết rằng ta đang có tâm, nhất định phải tịch diệt tâm này. Nếu đang sinh pháp, bằng mọi cách phải làm cho pháp vô sanh. Hành động như vậy, Phật Đạo gọi là chánh tinh tấn.
Trên đời, có những kẻ vô công, suốt ngày chiêm nghiệm những điều vô bổ như con gà và quả trứng cái nào có trước. Giả sử người này biết rõ cái nào có trước, cũng chỉ thỏa mãn tánh ham thích tò mò những điều vô căn cứ. Thay vì ngồi chiêm nghiệm những điều như thế, người có trí hoặc đi tìm con gà, hoặc đi tìm quả trứng”, nhất định sẽ cho ra nhiều lợi ích thiết thực hơn.
Hỏi: Kinh nói rằng: “Phật do pháp sanh”. Xin hỏi, Phật là không pháp vì sao lại nói rằng, Phật là do pháp sanh?
Đáp: Câu này, Phật nói với ông Ưu Ba Ly, trong đương cơ “luận về Tam Bảo”. Vì thế, câu này chưa phải là liễu nghĩa. Tuy chưa phải liễu nghĩa, nhưng trong đương cơ, câu nói đó giúp Ưu Ba Ly rời bỏ thiệt tế đang chứng, và làm tốt công việc một Tỳ Kheo cầm giữ mực thước của Tăng.
Cho nên, ngoài đương cơ này hoặc những đương cơ tương tự, Phật sẽ không tuyên thuyết những câu nói như vậy. Ví như Kinh Kim Cang, Phật nói: “Phật là không pháp”.
-------------------------
- Như Huyễn Tam Ma Đề: Là phép tu dùng huyễn pháp để diệt huyễn tâm.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






