Bát Chánh Đạo Của Ba Thừa

 0
Bát Chánh Đạo Của Ba Thừa

Cũng như các học pháp khác, bát chánh đạo ba thừa khác nhau bởi thân chứng của họ khác nhau. Nhị thừa chứng diệt đế do yểm ly triệt để nên quan niệm chánh từ yểm ly mà có, nghĩa là sau khi thành tựu xả giác chi thân tâm bây giờ là chánh nên những gì phát ra từ đó đều chân chánh. Có thể hiểu chánh kiến của nhị thừa có được do thấu suốt mối nguy hại của sự không thấu suốt và không yểm ly. Bài kinh sau đây có thể tiêu biểu cho bát chánh của nhị thừa qua chánh kiến, chánh kiến như vậy thì bảy chánh còn lại cũng như vậy:

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ Kheo: "Này các Tỷ Kheo."

"Hiền giả," các Tỷ Kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:

− Chư Hiền, chánh tri kiến, chánh tri kiến, được gọi là như vậy. Chư Hiền, cho đến như thế nào, một Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?

Chúng tôi từ xa đến để được hiểu ý nghĩa lời nói ấy từ Tôn giả Sariputta. Thật lành thay, nếu Tôn giả Sariputta giảng cho ý nghĩa lời nói ấy. Sau khi nghe Tôn giả Sariputta, các Tỷ Kheo sẽ thọ trì.

− Chư Hiền, vậy hãy nghe, hãy khéo tác ý. Ta sẽ giảng.

Thưa vâng, Hiền giả! - Các Tỷ Kheo vâng đáp Tôn giả Sariputta.  Tôn giả Sariputta nói như sau:

− Chư Hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bổn thiện, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bổn bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bổn thiện?

− Chư Hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là bất thiện.

− Và chư Hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện.

− Và này chư Hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là thiện.

− Chư Hiền, thế nào là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri bất thiện như vậy, tuệ tri căn bổn bất thiện như vậy, tuệ tri thiện như vậy, tuệ tri căn bổn thiện như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên. "Tôi là” đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

Lành thay, Hiền giả!

Các Tỳ Kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta và hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau:  Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn, tuệ tri tập khởi của thức ăn, tuệ tri đoạn diệt của thức ăn, và tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, chư Hiền khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là tập khởi của thức ăn, thế nào là đoạn diệt của thức ăn, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn?

− Chư Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến các loài chúng sanh đã sanh được an trú hay các loài hữu tình sẽ sanh được hỗ trợ cho sanh.

− Thế nào là bốn? Đoàn thực, loại thô hay loại tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư.

− Từ tập khởi của ái có tập khởi của thức ăn, từ đoạn diệt của ái có đoạn diệt của thức ăn.

− Bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, tức là: Chánh Tri kiến, Chánh  Tư duy,  Chánh  Ngữ,  Chánh  Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn như vậy, tuệ tri tập khởi của thức ăn như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thức ăn như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên. "Tôi là” đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại.  Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

Lành thay, Hiền giả!  Các Tỳ Kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta liền hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau: Này Hiền giả, có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ, tuệ tri Tập khởi của khổ, tuệ tri  Đoạn diệt của khổ,  tuệ tri con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là Khổ, thế nào là Tập khởi của khổ, thế nào là Đoạn diệt của khổ, thế nào là con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm thủ uẩn là khổ. Chư Hiền, như vậy gọi là Khổ.

− Chư Hiền, thế nào là Tập khởi của khổ? Chính là ái đưa đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, phi hữu ái. Chư Hiền, như vậy gọi là Tập khởi của khổ.

− Chư Hiền, thế nào là Đoạn diệt của khổ?  Đó là sự đoạn diệt ly tham, không có dư tàn, sự quăng bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp khát ái ấy.   Chư Hiền, thế nào là con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ?   Chính là bát chánh đạo đưa đến khổ diệt, tức là Chánh tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ như vậy, tuệ tri Tập khởi của khổ như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của khổ như vậy, tuệ tri con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ như vậy, khi ấy vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên,... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.

Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử...(như trên)... thành tựu diệu pháp này?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết, tuệ tri tập khởi của già chết, tuệ tri đoạn diệt của già chết, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến,... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là già chết, thế nào là tập khởi của già chết, thế nào là đoạn diệt của già chết, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của già chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào, trong từng mỗi loại hữu tình, sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc da nhăn, tuổi thọ ngày một hao mòn, bại hoại các căn; chư Hiền, như vậy gọi là già.

− Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các ấm, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết. Già như vậy và chết như vậy, chư Hiền, như vậy gọi là già chết. Từ sự tập khởi của sanh, có sự tập khởi của già chết, từ sự đoạn diệt của sanh, có sự đoạn diệt của già chết.  Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, tức là: Chánh Tri kiến... (như trên)... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết như vậy, tuệ tri tập khởi của già chết như vậy, tuệ tri đoạn diệt của già chết như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên... (như trên)..., và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sanh, tuệ tri tập khởi của sanh, tuệ tri đoạn diệt của sanh, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sanh, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là sanh, thế nào là tập khởi của sanh, thế nào là đoạn diệt của sanh, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của sanh?

Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào, trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các ấm, tụ đắc các xứ; Chư Hiền, như vậy gọi là sanh. Từ sự tập khởi của hữu, có sự tập khởi của sanh, từ sự đoạn diệt của hữu, có sự đoạn diệt của sanh, và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của sanh, tức là: Chánh Tri kiến ... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri được sanh như vậy, tuệ tri được tập khởi của sanh như vậy, tuệ tri được đoạn diệt của sanh như vậy, tuệ tri được con đường đưa đến đoạn diệt của sanh như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... (như trên)... như vậy... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu, tuệ tri tập khởi của hữu, tuệ tri đoạn diệt của hữu, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hữu, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là hữu, thế nào là tập khởi của hữu, thế nào là đoạn diệt của hữu, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của hữu? Chư Hiền, có ba hữu này: Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Từ tập khởi của thủ, có tập khởi của hữu; từ đoạn diệt của thủ có đoạn diệt của hữu và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của hữu, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu như vậy, tuệ tri tập khởi của hữu như vậy, tuệ tri đoạn diệt của hữu như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hữu như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri tập khởi của thủ, tuệ tri đoạn diệt của thủ, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thủ, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh Tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là thủ, thế nào là tập khởi của thủ, thế nào là đoạn diệt của thủ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thủ?

− Chư Hiền, có bốn thủ này: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Từ tập khởi của ái, có tập khởi của thủ; từ đoạn diệt của ái, có đoạn diệt của thủ; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của thủ, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.    Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thủ như vậy, tuệ tri tập khởi của thủ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thủ như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thủ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… (như trên)… và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái, tuệ tri tập khởi của ái, tuệ tri đoạn diệt của ái, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của ái, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh Tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là ái, thế nào là tập khởi của ái, thế nào là đoạn diệt của ái, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của ái?

− Chư Hiền, có sáu loại này: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Từ tập khởi của thọ, có tập khởi của ái, từ đoạn diệt của thọ, có đoạn diệt của ái, và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của ái, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.   Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái như vậy, tuệ tri tập khởi của ái như vậy, tuệ tri đoạn diệt của ái như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của ái như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ, tuệ tri tập khởi của thọ, tuệ tri đoạn diệt của thọ, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thọ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là thọ, thế nào là tập khởi của thọ, thế nào là đoạn diệt của thọ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thọ?

− Chư Hiền, có sáu loại thọ này: Thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Từ tập khởi của xúc, có tập khởi của thọ; từ đoạn diệt của xúc, có đoạn diệt của thọ; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của thọ, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ như vậy, tuệ tri tập khởi của thọ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thọ như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thọ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc, tuệ tri tập khởi của xúc, tuệ tri đoạn diệt của xúc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của xúc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là xúc, thế nào là tập khởi của xúc, thế nào là đoạn diệt của xúc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc?

− Chư Hiền, có sáu loại xúc này: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Từ tập khởi của sáu nhập, có tập khởi của xúc; từ đoạn diệt của sáu nhập, có đoạn diệt của xúc, và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc như vậy, tuệ tri tập khởi của xúc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của xúc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của xúc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

Lành thay, Hiền giả...câu hỏi như sau: Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập, tuệ tri tập khởi của sáu nhập, tuệ tri đoạn diệt của sáu nhập, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là sáu nhập, thế nào là tập khởi của sáu nhập, thế nào là đoạn diệt của sáu nhập, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập?

− Chư Hiền, có sáu nhập này: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Từ tập khởi của danh sắc, có tập khởi của sáu nhập; từ đoạn diệt của danh sắc có đoạn diệt của sáu nhập; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, chỉ khi nào vị Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập như vậy, tuệ tri tập khởi của sáu nhập như vậy, tuệ tri đoạn diệt của sáu nhập như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh sắc, tuệ tri tập khởi của danh sắc, tuệ tri đoạn diệt của danh sắc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là danh sắc, thế nào là tập khởi của danh sắc, thế nào là đoạn diệt của danh sắc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, chư Hiền, như vậy gọi là danh; bốn đại và sắc do bốn đại tạo thành, chư Hiền, như vậy gọi là sắc; như vậy đây là danh và đây là sắc, Chư Hiền, như vậy gọi là danh sắc. Từ tập khởi của thức, có tập khởi của danh sắc; từ đoạn diệt của thức, có đoạn diệt của danh sắc; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh sắc như vậy, tuệ tri tập khởi của danh sắc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của danh sắc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức, tuệ tri tập khởi của thức, tuệ tri đoạn diệt của thức, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là thức, thế nào là tập khởi của thức, thế nào là đoạn diệt của thức, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thức? Chư Hiền, có sáu loại thức này: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Từ tập khởi của hành, có tập khởi của thức; từ đoạn diệt của hành có đoạn diệt của thức; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức như vậy, tuệ tri tập khởi của thức như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thức như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành, tuệ tri tập khởi của hành, tuệ tri đoạn diệt của hành, tuệ tri con đường  đưa  đến đoạn  diệt của hành, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là hành, thế nào là tập khởi của hành, thế nào là đoạn diệt của hành, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của hành?

− Chư Hiền, có ba loại hành này: Thân hành, ngữ (khẩu) hành, tâm (ý) hành. Từ tập khởi của vô minh, có tập khởi của hành; từ đoạn diệt của vô minh, có đoạn diệt của hành; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của hành, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành như vậy, tuệ tri tập khởi của hành như vậy, tuệ tri đoạn diệt của hành như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hành như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

nh thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh, tuệ tri tập khởi của vô minh, tuệ tri đoạn diệt của vô minh, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, khi ấy, Thánh đệ tử có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là vô minh, thế nào là tập khởi của vô minh, thế nào là đoạn diệt của vô minh, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh? Sự không tuệ tri về khổ, không tuệ tri về khổ tập, không tuệ tri về khổ diệt, không tuệ tri về con đường đưa đến khổ diệt; Chư Hiền, như vậy gọi là vô minh. Từ tập khởi của lậu hoặc, có tập khởi của vô minh; từ đoạn diệt của lậu hoặc, có đoạn diệt của vô minh; và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh như vậy, tuệ tri tập khởi của vô minh như vậy, tuệ tri đoạn diệt của vô minh như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.

Lành thay, Hiền giả!

Các vị Tỷ Kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta, liền hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau: Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?

− Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc, tuệ tri tập khởi của lậu hoặc, tuệ tri đoạn diệt của lậu hoặc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc. Chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

− Chư Hiền, thế nào là lậu hoặc, thế nào là tập khởi của lậu hoặc, thế nào là đoạn diệt của lậu hoặc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc? Chư Hiền, có ba lậu hoặc này: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Từ tập khởi của vô minh có tập khởi của lậu hoặc; từ đoạn diệt của vô minh có đoạn diệt của lậu hoặc và bát chánh đạo này là con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc, tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

− Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc như vậy, tuệ tri tập khởi của lậu hoặc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên. "Tôi là” đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại.  Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

n giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ Kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.”[[1]]

Đọc bài kinh trên, phân tích tỉ mỉ đầu đuôi gốc ngọn nguyên nhân và sự diệt tận của một pháp để đưa đến chấm dứt vô minh và các lậu, phân tích đến chia chẻ một pháp là đặc tính của giáo Thanh Văn thừa.

  • Khi một pháp được tuệ tri như thật thì sự yểm ly sẽ dễ thành tựu, yểm ly thành tựu gọi là có chánh tri kiến và bát chánh đạo căn cứ trên yểm ly triệt để: “Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.”

Một đặc điểm thứ hai của Thanh Văn thừa là niềm tin pháp tuyệt đối, chính niềm tin này nên nói Thanh Văn do thánh giáo thành tựu không phải vô cớ. Chữ Thanh Văn cũng xuất phát từ ý nghĩa này, tức là nghe thánh giáo phát khởi niềm tin mà thành tựu thánh quả.

  • Bát chánh đạo của Bồ Tát thừa hoàn toàn không giống Thanh Văn thừa, bài kinh sau sẽ có sự so sánh lý thú về chánh kiến của Bồ Tát và Thanh Văn:

“Như vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng năm trăm Tỳ Kheo câu hội, chư đại Bồ Tát vô lượng vô biên có tám ngàn đại Bồ Tát làm thượng thủ, đều được tam muội và đà la ni, khéo nhập ba môn giải thoát không vô tướng vô nguyện, thiện xảo các thần thông, được vô sanh pháp nhẫn, danh hiệu các ngài là: Di Lâu Bồ Tát, Ðại Di Lâu Bồ Tát, Thường Nhập Ðịnh Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, Bửu Thủ Bồ Tát, Thường Hỉ Căn Bồ Tát, Bạt Ðà Bà La Bồ Tát, Bửu Tướng Bồ Tát, La Hầu Bồ Tát, Thích Thiên Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Thượng Ý Bồ Tát, Thắng Ý Bồ Tát, Tăng Thượng Ý Bồ Tát, có tám ngàn đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ.

Ðức Thế Tôn ở Vương xá thành được nhà Vua các Vương Tử, Bà La Môn, Trưởng giả, Cư sĩ tôn trọng tán thán cúng dường. Ðức Thế Tôn có đủ vô lượng trăm ngàn vạn chúng cung kính vây quanh mà vì họ thuyết pháp.

Bấy giờ chư Tôn giả Xá Lợi Phất,  Ðại Mục Kiền Liên,  Ðại Ca Diếp, Tu Bồ Ðề, Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, Ly Bà Ða, A Thấp Bà,  Ưu Ba Ly,  La Hầu La, A Nan, vô lượng chư đại Thanh Văn như vậy buổi sáng chỉnh y cầm bát vào thành Vương Xá đến từng nhà đúng như pháp mà khất thực không có duyên gì khác, lần lần đi đến trước cung điện của vua A Xà Thế, đồng đứng yên lặng chẳng nói khất thực hay chẳng khất thực.

Vua A Xà Thế có người con gái tên Vô Úy Ðức đoan chánh xinh đẹp vô song thành tựu công đức tối thắng thù diệu mới mười hai tuổi mang guốc vàng bửu đang ngồi trên cung lầu thấy chư Thanh Văn mà chẳng đứng dậy vẫn yên lặng ngồi tại chỗ.

Vua A Xà Thế thấy vậy mới bảo rằng: “Con chẳng thấy chư vị ấy là đệ tử thượng túc của đức Thích Ca Như Lai đã thành tựu đại pháp làm phước điền cho thế gian vì thương chúng sanh mà các Ngài đi khất thực. Nay con được thấy các Ngài sao con chẳng dậy chẳng nghinh chẳng lễ chẳng hỏi han lại chẳng nhường chỗ ngồi. Con thấy sự gì mà chẳng đứng dậy tiếp nghinh?”

Vô Úy Ðức tâu Phụ Vương: Chẳng hay phụ vương có thấy có nghe Chuyển Luân Thánh Vương thấy các Tiểu Vương mà đứng dậy tiếp nghinh chăng?

A Xà Thế Vương nói: Không dậy tiếp nghinh.

Vô Úy Ðức lại tâu: Phụ Vương có thấy có nghe lúc sư tử chúa muông thú thấy các dã can liền đứng dậy tiếp nghinh chăng?

A Xà Thế Vương nói: Không có sự ấy.

Vô Úy Ðức lại tâu: Phụ Vương có thấy có nghe Ðế Thích Thiên Vương tiếp nghinh Chư Thiên Tử, đại Phạm Thiên Vương lễ kính Thiên chúng chăng?

A Xà Thế Vương nói: Không có sự ấy.

Vô Úy Ðức lại tâu: Phụ Vương có thấy có nghe thần biển lớn lễ kính các thần sông thần ao chăng?

A Xà Thế Vương nói: Không có sự ấy.

Vô Úy Ðức lại tâu: Phụ Vương có thấy có nghe Tu Di Sơn Vương lễ kính các Sơn Vương khác chăng?

A Xa Thế Vương nói: Không có sự ấy.

Vô Úy Ðức lại tâu: Phụ Vương có thấy có nghe thần nhựt nguyệt lễ kính trùng đom đóm chăng?

A Xà Thế Vương nói: Không có sự ấy.

Vô Úy Ðức tâu: Phụ Vương nên biết Bồ Tát phát tâm xu hướng Vô thượng Bồ Đề dùng đại từ bi sao lại lễ kính hàng Thanh Văn rời lìa tâm đại bi! Ðâu có sư tử vương Bồ Tát cầu đạo Vô thượng, Chánh chơn Chánh giác lại lễ các dã can Tiểu thừa! Ðâu có Bồ Tát đã cầu đạo đại phạm thanh tịnh tiến lên Vô thượng Bồ Đề lại nên thân cận hàng Thanh Văn thiện căn kém ít!   Ðâu có người muốn đến biển lớn đại trí muốn cầu khéo biết khối đại pháp mà lại còn cầu dấu chưn trâu, vì hàng Thanh Văn nghe âm thanh từ nơi người khác vậy. Ðâu có người muốn đến núi Phật Tu Di để cầu sắc thân vô biên của Như Lai mà lại cầu sức không tam muội trong hột cải của hàng Thanh Văn mà đi lễ họ. Ðâu có người đã được nghe công đức trí huệ của chư Phật như nhựt nguyệt quang lại lễ kính hàng Thanh Văn để cầu lửa sáng đom đóm, vì hàng Thanh Văn chỉ có thể tự lợi tự soi từ người khác nghe âm thanh mà được hiểu vậy.

u Phụ Vương! Sau khi các đức Phật nhập Niết Bàn còn chẳng lễ kính hàng Thanh Văn huống là nay đức Thế Tôn còn tại thế gian. Tại sao? Vì nếu người nào thân cận hàng Thanh Văn tất phát tâm Thanh Văn, người nào thân cận hàng Duyên Giác tất phát tâm Duyên Giác, có ai gần gũi đấng Chánh chơn Chánh giác tất phát tâm Vô thượng Bồ Ðề.

Nói xong, Vô Úy Ðức liền dùng kệ báo cáo Phụ Vương A Xà Thế:

Ví như người đến biển

Mà lấy một văn tiền

i thấy chư Thanh Văn

Tu hành cũng như vậy

…………………………

Khéo đến tại thế gian

Mà phát tâm vô thượng

Mong cầu đạo vô thượng

Cứu độ các chúng sanh

Hay tự lợi lợi tha

Người nầy đáng được khen

Cũng được đời tôn trọng

Và được đạo cứu cánh

Vì thế hôm nay tôi

Chẳng lễ kính Thanh Văn .

Vua A Xà Thế bảo Vô Úy Ðức: Con đại ngã mạn, sao thấy chư đại Thanh Văn lại chẳng phụng nghinh?

Vô Úy Đức tâu: Phụ Vương chớ bảo như vậy. Phụ Vương cũng ngã mạn, sao Phụ Vương chẳng phụng nghinh những người nghèo cùng trong thành Vương Xá nầy?

Vua i: Họ chẳng đồng hàng với ta, sao ta lại phụng nghinh?

Vô Úy Ðức tâu: Sơ tâm Bồ Tát cũng như vậy, tất cả Thanh Văn và Duyên Giác chẳng đồng hàng.

Vua i: Con há chẳng thấy chư Bồ Tát lễ kính tất cả chúng sanh ư?

Vô Úy Ðức nói: Bồ Tát vì độ các chúng sanh kiêu mạn sân não khiến họ phát khởi tâm hồi hướng đại đạo nên lễ kính tất cả chúng sanh, vì tăng trưởng gốc thiện căn cho các chúng sanh mà Bồ Tát lễ kính. Nhưng nay chư Thanh Văn không tâm sân hận lại cũng chẳng tăng trưởng thiện căn được. Dầu trăm ngàn chư Phật vì họ mà nói diệu pháp nhưng nơi giới-định-huệ họ đã được vẫn không tăng thêm. Thanh Văn như khối lưu ly, Bồ Tát như chiếc bình báu lớn.  

Cũng vậy, dầu trăm ngàn chư Phật vì hàng Thanh Văn nói diệu pháp họ cũng chẳng được lợi ích chẳng tăng thêm giới-định-huệ, họ chẳng thể làm cho chúng sanh phát tâm đến Nhứt thiết trí. Ví như đại hải có thể nhận nước của tất cả sông và mưa mây, tại sao, vì đại hải là cái bình vô lượng vậy. Chư Bồ Tát lúc diễn thuyết pháp tùy chỗ người được nghe được phước lợi lớn tăng trưởng tất cả gốc các thiện căn, tại sao, vì chư Bồ Tát là chiếc bình ngôn thuyết vô biên vậy.

Vua A Xà Thế nghe Vô Úy Ðức nói những lời trên thì nín lặng ngồi yên.

By giờ Tôn giả Xá Lợi Phất tự nghĩ rằng:       Vô Úy Ðức nầy được đại biện tài có thể ngôn thuyết vô tận như vậy, nay ta đến hỏi nàng ít lời xem nàng có đắc nhẫn chăng.

Tôn giả liền đến hỏi Vô Úy Ðức rằng: Nay cô an trụ Thanh Văn thừa ư?

 Ðáp: Không ạ.

Hỏi: Nay cô an trụ Duyên Giác thừa ư?

Ðáp: Không ạ.

Hỏi: Nếu như vậy thì cô an trụ thừa nào mà có thể sư tử hống như vậy?

Ðáp: Giả sử nay tôi có thể an trụ thì tất chẳng thể làm sư tử hống, do tôi không chỗ trụ nên tôi có thể làm sư tử hống. Nhưng Xá Lợi Phất nói an trụ thừa nào, như pháp được Ngài chứng đắc, pháp ấy há lại có thừa sai khác ư, là Thanh Văn thừa, là Duyên Giác thừa, là Ðại thừa ư?

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: Cô nghe tôi nói, pháp tôi được chứng không có tướng thừa chẳng phải thừa sai khác, vì là nhứt tướng, nghĩa là vô tướng vậy.

Vô Úy Ðức i: Nếu pháp vô tướng thì thế nào cầu được?

n giả Xá Lợi Phất nói: Pháp chư Phật cùng pháp phàm phu có tướng thắng phụ sai biệt gì?

Vô Úy Ðức i: Không và tịch tĩnh có sai biệt gì?

n giả Xá Lợi Phất nói: Không có sai biệt.

Vô Úy Ðức nói: Như không và tịch tĩnh không có tướng sai biệt, pháp chư Phật cùng pháp phàm phu không có tướng thắng phụ sai biệt. Lại như hư không hay thọ các sắc mà không có sai biệt, pháp chư Phật cùng pháp phàm phu không có tướng sai biệt cũng không có dị tướng.

Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nói với Vô Úy Ðức rằng: Cô thấy Phật pháp cùng Thanh Văn pháp có sai khác gì mà nay cô thấy hàng đại Thanh Văn cô chẳng dậy tiếp đón chẳng nhường giường ghế?

Vô Úy Ðức nói: Giả sử tinh tú đầy trời cũng chẳng chiếu sáng thế gian.  Hàng Thanh Văn cũng vậy, vì lúc nhập định mới có trí thấy biết, lúc chẳng nhập định thì không hay biết.

Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nói: Nếu chẳng nhập định thì chẳng biết được tâm chúng sanh.

Vô Úy Ðức nói: Ðức Phật chẳng nhập định mà có thể ở trong hằng hà sa thế giới tùy chỗ nên mà thuyết pháp độ các chúng sanh, vì khéo biết tâm họ vậy. Ðây là thắng sự của chư Phật Như Lai. Hàng Thanh Văn như tinh tú ánh sáng kém yếu làm sao so sánh được.

Lại nầy Ðại Mục Kiền Liên tất cả Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu thế giới thành bao nhiêu thế giới hoại chăng?

Ðáp: Chẳng biết được.

Hỏi: Hàng Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chư Phật đã nhập Niết Bàn, bao nhiêu chư Phật vị lai sẽ nhập và bao nhiêu chư Phật hiện tại nay nhập Niết Bàn chăng?

Ðáp: Chẳng biết được.

Hỏi: Hàng Thanh Văn có ai biết được có bao nhiêu chúng sanh nhiều tham dục, bao nhiêu chúng sanh nhiều sân hận, bao nhiêu chúng sanh nhiều ngu si và bao nhiêu chúng sanh nhiều đẳng phần chăng?

Ðáp: Chẳng biết được.

Hỏi: Hàng Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chúng sanh thọ Thanh Văn thừa, bao nhiêu chúng sanh thọ Duyên Giác thừa và bao nhiêu chúng sanh thọ Phật thừa chăng?

Ðáp: Chẳng biết được.

Hỏi: Hàng Thanh Văn thừa có ai biết được bao nhiêu chúng sanh Thanh Văn độ, bao nhiêu chúng sanh Duyên Giác độ và bao nhiêu chúng sanh chư Phật độ được chăng?

Ðáp: Chẳng biết được.

Hỏi: Hàng thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chúng sanh tại chánh định tụ chánh kiến và bao nhiêu chúng sanh tại tà định tụ chăng?

Ðáp: Chẳng biết được.

Vô  Úy  Ðức  nói:  Nầy  Ðại  Mục  kiền Liên! Duy có đức Như Lai Chánh Chơn Chánh Giác khéo biết như thiệt chúng sanh giới mà vì họ thuyết pháp. Sự việc như vậy chẳng phải cảnh giới Thanh Văn Duyên Giác huống là các chúng sanh khác. Nên biết đây là sự việc thù thắng của đức Như Lai, vì đức Như Lai có đủ Nhứt thiết trí vậy. Tất cả Thanh Văn và Duyên Giác không có được.

Thưa Ðại Mục Kiền Liên! Ðức Thế Tôn thọ ký Ngài là thần thông đệ nhứt, thần thông của Ngài có thể đến thế giới Hương Tượng biết trong thế giới ấy tất cả các cây đều sản xuất hương chiên đàn thượng diệu chăng?

n giả đáp: Nay tôi mới nghe tên thế giới ấy thì làm sao có thể đến đó được.  Ðức Phật tại đó hiệu là gì?

Vô Úy Ðức nói: Ðức Phật hiệu Phóng Hương Quang Minh Như Lai Ứng Cúng đẳng Chánh Giác trụ tại thế giới ấy thuyết pháp.

Tôn giả hỏi: Làm thế nào được thấy đức Phật ấy?

Vô Úy Ðức chẳng rời chỗ ngồi chẳng động oai nghi mà thệ nguyện rằng: Nếu Bồ Tát lúc sơ phát tâm có thể hơn hàng Thanh Văn và Duyên Giác, nguyện đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai hiện thân nơi đây, cũng khiến hàng Thanh Văn Duyên Giác thấy thế giới Hương Tượng và ngửi mùi cây hương chiên đàn thượng diệu.

Vô Úy Ðức phát thệ nguyện xong, đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai từ nơi thân phóng quang. Do đức Phật ấy phóng quang nên chư Thanh Văn đây đều được thấy thế giới Hương Tượng và đức Phật có chúng Bồ Tát vây quanh, lưới báu che giăng, đức Phật ấy vì chúng mà thuyết pháp. Tại đây đại chúng đều được nghe tiếng thuyết pháp. Do thần lực của đức Phật ấy nên đại chúng đây còn được ngửi hơi hương chiên đàn thượng diệu của cây thế giới ấy.

By giờ đức Phật Phóng Hương Quang Minh nói rằng: Ðúng như vậy, như lời nói của Vô Úy Ðức: Bồ Tát lúc sơ phát tâm đã hơn hàng Thanh Văn và Duyên Giác cảnh giới.

c ấy tại núi Kỳ Xà Quật, Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Hơi thơm vi diệu nầy từ đâu đến?

Ðức Phật nói: Nầy Di Lặc! Vô Úy Ðức cùng chư Thanh Văn luận nghị như pháp và phát thệ nguyện. Ðức Phóng Hương Quang Minh dùng thần lực hiện thân và thế giới Hương Tượng cùng hơi hương cây chiên đàn, nên hơi hương thượng diệu ấy khắp cõi Tam Thiên Ðại Thiên nầy.

Vô Úy Ðức bảo Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên: Nếu đã thấy các công đức thù thắng bất tư nghì như vậy mà còn có thể phát tâm Thanh Văn Tiểu thừa hẹp kém chỉ tự độ, thì nên biết là thiện căn rất nhỏ ít. Ai là người đã thấy sự việc Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Ngài có biết thế giới Hương Tượng ấy cách đây bao nhiêu chăng?

n giả đáp:  Chẳng biết.

Vô Úy Ðức i: Ngài thừa thần thông trải qua trăm ngàn kiếp cũng không thể biết không thể thấy thế giới ấy. Như tất cả tre lau lùm rừng cõi nầy làm con số không thể tính đếm, qua khỏi các Phật thế giới như số trên đây mới có thế giới Hương Tượng ấy.

By giờ đức Phật ấy thâu nhiếp quang minh, thế giới Hương Tượng cùng đức Phật ấy và chúng Bồ Tát bỗng chẳng còn hiện.

n giả Ðại Ca Diếp nói với Vô Úy Ðức rằng: Cô đã từng thấy thế giới Hương Tượng và đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai rồi phải chăng?

Vô Úy Ðức i: Thưa Ngài Ca Diếp! Như Lai có thể thấy được chăng?   Như lời Phật dạy:  Nếu dùng sắc thấy ta và dùng âm thanh cầu ta, người ấy đều hành đạo tà chẳng thấy được Như Lai.    Vì thân chư Như Lai là pháp thân, pháp chẳng  thấy nghe thì làm sao thấy nghe được.

y phương tiện nào mà chúng sanh hạp thích thì Phật vì họ mà thị hiện, thân Phật không chướng ngại vì an trụ phương tiện vậy.

Nhưng Ngài Ðại Ca Diếp hỏi tôi có thấy đức Phật và thế giới ấy chăng?

Thưa Ngài Ðại Ca Diếp Tôi thấy đức Phật ấy chẳng phải là nhục nhãn thấy vì chẳng phải là sắc được thấy bởi nhục nhãn; chẳng phải thiên nhãn thấy vì không có thọ, chẳng phải huệ nhãn thấy vì rời lìa tưởng tướng, chẳng phải pháp nhãn thấy vì rời lìa các hành, chẳng phải Phật nhãn thấy vì rời lìa thức thấy vậy.

i thấy Như Lai cũng như chỗ thấy của Ðại Ca Diếp vì đã diệt trừ tâm vô minh ái kiến vậy.

Thưa Ngài Ðại Ca Diếp! Tôi thấy đức Phật ấy cũng như chỗ thấy của Ðại Ca Diếp Tôn giả. Lại cũng còn thấy ngã ngã sở …

n giả hỏi: Nếu pháp không hẳn tại sao phát khởi vô minh ái và tướng ngã ngã sở, vì tất cả chúng sanh chẳng thấy được vậy?

Vô Úy Ðức nói: Thưa Ngài Ðại Ca Diếp, tất cả pháp không có hẳn thì nó thế nào được thấy?

n giả nói: Nếu tất cả Phật pháp cứu cánh là không có thì thế nào thấy được?

Vô Úy Ðức  nói:  Thưa  Ngài  Ðại  Ca Diếp! Ngài có thấy Phật pháp tăng trưởng nghĩa chăng?

n giả nói: Tôi còn chẳng biết phàm phu pháp hà huống Phật pháp.

Vô Úy Ðức i: Vì thế nên, thưa Ngài Ðại Ca Diếp, pháp ấy chẳng thành tựu thì thế nào có   đứt nối mà người chẳng chứng kia thấy.  Thưa Ngài Ðại Ca Diếp! Các pháp không có hẳn chẳng biện bày được, vì thế nên tất cả pháp đều không. Nếu bổn pháp không có thì thế nào thấy được pháp giới thanh tịnh ấy.  

Thưa Ngài Ðại Ca Diếp, nếu ai muốn thấy tịnh Như Lai thì thiện nam thiện nữ ấy phải tịnh tự tâm.

Tôn giả hỏi Vô Úy Ðức: Thế nào khéo tịnh tự tâm?

Vô Úy Ðức nói: Như tự thân chơn như và tất cả pháp chơn như, nếu tin nơi ấy chẳng tạo tác chẳng vong thất, thấy như vậy thì tự tâm thanh tịnh.

n giả hỏi: Tự tâm lấy gì làm thể?

Vô Úy Ðức i: Thưa Ngài Ðại Ca Diếp! Nếu cùng chư Bồ Tát thuyết pháp đồng sự mà chẳng phát khởi tướng chúng sanh. Bồ Tát nội quán  như vậy thì gọi là thành tựu nội quán.

Thưa Ngài Ðại Ca Diếp! Tất cả các pháp đầy đủ bổn tế trung tế và hậu tế, vì tất cả pháp lấy chơn như làm thể vậy. Vì tất cả pháp hiện tại chơn như thế vậy. Nếu quán như vậy, Bồ Tát nầy gọi là thành tựu nội quán.

n giả nói: Cô an trụ pháp ấy thế nào?

Vô Úy Ðức i: Phải làm như vầy: như chơn như ấy thấy không phược không giải.

Tôn giả hỏi: Thấy thế nào thì gọi là chánh kiến?

Vô Úy Ðức i: Nếu rời lìa sự thấy hai bên, chẳng làm chẳng phải chẳng làm, thấy mà chẳng thấy như vậy thì gọi là chánh kiến. Thưa Ngài Ðại Ca Diếp! Pháp ấy chỉ có danh tự, mà vì ly danh tự, vì vĩnh viễn chẳng chứng vậy.

n giả li hỏi: Thế nào được tự thấy ?

Vô Úy Ðức i: Như chỗ thấy của Ðại Ca Diếp.

Tôn giả nói: Tôi chẳng thấy tự thân và ngã sở?

Vô Úy Ðức i: Phải nên thấy tất cả pháp như vậy, vì không có ngã và ngã sở vậy.

Lúc Vô Úy Ðức nói pháp ấy, Tôn giả Tu Bồ Ðề lòng rất vui mừng mà nói với Vô Úy Ðức rằng: Cô khéo được lợi lành mà hay thành tựu biện tài ấy.

Vô Úy Ðứci: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Pháp có được hay chẳng được mà có thể cầu ư, sao Ngài bảo tôi khéo được biện tài. Tôi có biện thuyết nầy: Nếu tôi nói không có chỗ giác tri hoặc nội hoặc ngoại thì là có biện tài.

n giả hi: Cô chứng được gì đắc pháp gì mà có diệu biện như vậy?

Vô Úy Ðức nói: Vì chẳng tự biết vì chẳng từ người mà biết, chẳng thấy có tướng pháp thiện pháp bất thiện sai biệt, biết pháp như vầy: chẳng thấy nhiễm tịnh hữu lậu vô lậu hữu vi vô vi thế gian xuất thế gian và pháp phàm phu, vì pháp thể ấy chẳng thể thấy vậy, là chư Phật pháp,  mà  đắc  Phật  pháp  chẳng  thấy  Phật pháp.     

Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Nếu không chỗ biết thấy như vậy thì có biện tài nầy.

n giả hỏi: Thế nào là biện tài?

Vô Úy Ðứci: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Như chỗ sở đắc tịch diệt của Ngài vậy.

Vô Úy Ðức nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: Như pháp thể ấy không nghe không được mà có chỗ nói.

Vô Úy Ðức hỏi Tôn giả Tu Bồ Ðề: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Pháp thể trụ được chăng, lại có thể tăng giảm chăng mà có biện tài như vậy?

n giả nói: Nếu chứng vô lậu và pháp không có sai biệt không có biện thuyết, vì pháp thể ấy chẳng thể nói được vậy.

Vô Úy Ðức nói: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Ở nơi tất cả pháp sao Ngài lại sanh niệm rằng được lợi lành được biện tài như vậy?

n giả Tu Bồ Ðề nói: Cô do được biện tài mà nói hay chẳng được biện tài mà nói?

Vô Úy Ðức nói: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Ngài có tin lời đức Phật dạy tất cả các pháp như hưởng chăng?

n giả i: Tôi tin sự ấy.

Vô  Úy Ðức nói:  Hưởng  ấy là  có hay không có biện tài?

n giả nói: Do nơi nội thanh mà có ngoại hưởng.

Vô Úy Ðức nói: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Do vì có thanh mà có hưởng ấy, hưởng ấy mà có thì là tánh tướng gì? Nhưng hưởng ấy không có tánh tướng. Tại sao ? Vì nếu do duyên sanh thì hưởng ấy không có nghĩa sanh.

n giả i: Tất cả pháp do duyên sanh.

Vô Úy Ðức i: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp thể tánh chẳng sanh.

n giả i: Nếu tất cả pháp thể tánh cứu cánh không có như vậy, sao đức Như Lai dạy rằng  hằng  hà sa chư Phật sẽ thành Chánh Giác?

Vô Úy Ðức i: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề!  Pháp giới là có thể sanh được chăng?

n giả i: Chẳng thể sanh được.

Vô Úy Ðức i: Tất cả chư Phật Như Lai đều là pháp giới tánh tướng.

n giả nói: Chẳng thấy tất cả pháp giới vy.

Vô Úy Ðứci: Bao nhiêu lời được nói, ngôn ngữ vô tánh, mà nói hằng hà sa chư Phật sẽ thành Chánh Giác, lời nói nầy có nghĩa gì. Tại sao? Vì pháp giới bất sanh bất diệt nên tất cả thuyết chẳng phải thuyết vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vì kia chẳng phải sự chẳng thể ngôn thuyết được, rời lìa nơi thiệt tế.

n giả Tu Bồ Ðề nói: Rất lạ, Vô Úy Ðức là cô gái tại gia mà hay thiện xảo thuyết pháp như vậy, lại có biện tài vô tận như vậy.

Vô Úy Ðức nói: Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Chư Bồ Tát không có giữ lấy hay chẳng giữ lấy, nghe hay chẳng nghe hoặc tại gia hoặc xuất gia mà có biện tài. Tại sao? Vì tâm thanh tịnh vậy. Do tâm tịnh nên trí hiển, do trí hiển nên hiển biện tài.

Vô Úy Ðức bảo Tôn giả Tu Bồ Ðề rằng: Nay nên khéo nói hạnh của Bồ Tát.

n giả i: Cô nói đi, tôi lắng nghe.

Vô Úy Ðức i: Bồ Tát thành tựu tám thứ pháp hạnh nên chẳng được nói là tại gia, xuất gia;

Một là Bồ Tát được tâm thanh tịnh quyết định tin Bồ Đề;

Hai là Bồ Tát thành tựu đại từ đại bi nên chẳng bỏ chúng sanh;

Ba là vì thành tựu đại từ bi nên thiện xảo tất cả sự thế gian;

Bốn là hay xả bỏ thân mạng chi phần và thành tựu phương tiện thiện xảo;

Năm là thiện xảo vô lượng phát nguyện;

Sáu là thành tựu Bát Nhã Ba La Mật hạnh vì rời lìa tất cả chấp kiến;

Bảy là đại dũng mãnh tinh tiến vì tu các thiện nghiệp mà không chán đủ vậy;

Tám là được vô ngại trí vì được vô sanh pháp nhẫn vậy.

Thưa Ngài Tu Bồ Ðề! Chư Bồ Tát do thành tựu tám pháp như vậy nên chẳng được gọi là tại gia hay xuất gia, tùy theo oai nghi nào cũng an trụ trong Bồ Đề không hề chướng ngại.

Bấy giờ Tôn giả La Hầu La bảo Vô Úy Ðức rằng: Lời nói ấy là ngôn thuyết bất tịnh. Cô mang guốc báu ngồi tòa cao mà luận nghị qua lại cùng chư đại Thanh Văn. Cô há chẳng nghe đức Phật dạy rằng: là người bất tịnh thì chẳng được thuyết pháp và cũng chẳng được thuyết pháp cho người ngồi tòa cao ư?

Vô Úy Ðức nói: Thưa Ngài La Hầu La! Ngài có thiệt biết tịnh và bất tịnh chăng? Thưa Ngài La Hầu La! Thế gian nầy là tịnh chăng?

n giả i: Không tịnh chẳng tịnh vậy.

Vô Úy Ðức i: Như Lai chế giới theo đó mà thọ hành rồi phạm giới đó là tịnh và bất tịnh. Nếu lại có người chẳng phạm giới đó là chẳng phải tịnh và bất tịnh.

Thưa Ngài La Hầu La! Thôi đi chớ có nói như vậy. Nếu người y như thuyết pháp y như chế giới   mà tu hành, thì người ấy nói bất tịnh.   Nhưng vì người ấy chứng được pháp vô lậu, thì người ấy không có phạm và chẳng phạm nên cũng không có tịnh và bất tịnh. Tại sao? Vì chư đại Thanh Văn đã quá các thuyết pháp đã quá các chế giới. Ðức Như Lai vì chư Thanh Văn hữu học đến trong tam giới nên vì họ thuyết pháp vì họ chế giới. Như chư đại Thanh Văn ấy đã quá tam giới. Do đây nên nói quá hay chẳng quá tam giới như vậy.

Do vì họ chẳng biết được giới nên nói tịnh và bất tịnh. Như hư không chỉ có ngôn thuyết duy trì lực thấy biết, thế nên được nói tịnh và bất tịnh vậy.

n giả La Hầu La hỏi: Tịnh và bất tịnh có sai biệt gì?

Vô Úy Ðứci: Ví như chơn kim rời lìa hẳn cấu uế làm những đồ trang sức và chẳng làm, màu sắc chơn kim có sai biệt gì?

n giả i: Không có sai biệt.

Vô Úy Ðức i: Tịnh cùng bất tịnh chỉ có ngôn thuyết danh tự để làm sai biệt mà không có sai biệt gì khác. Tại sao? Vì tất cả pháp tánh rời lìa tất cả cấu uế không nhiễm không trước vậy.

Thưa Ngài La Hầu La! Người ngồi tòa cao rộng chẳng nên thuyết pháp. Bồ Tát ngồi tòa trải cỏ hơn người ngồi tòa cao hơn cả đại Thanh Văn ngồi tại Phạm Thiên.

n giả i: Cô nói vậy là có nghĩa gì?

Vô Úy Ðức i: Thưa Ngài La Vân! Ngài có thấy Bồ Tát ngồi trên tòa gì mà thành Vô thượng Bồ Đề chăng?

n giả i: Ngồi trên tòa cỏ.

Vô Úy Ðức nói: Bồ Tát ngồi tòa cỏ mà trong Ðại Thiên thế giới tất cả Phạm Thiên, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương cùng chư Thiên Tử cho đến trời Sắc Cứu Cánh đều đến chắp tay lạy chưn Bồ Tát.

n giả i: Ðúng như vậy.

Vô Úy Ðức nói: Do thành tựu pháp như vậy mà Bồ Tát ngồi tòa cỏ hơn người ngồi tòa cao rộng lớn, hơn đại Thanh Văn ở tại Phạm Thiên.

Vua A Xà Thế bảo Vô Úy Ðức rằng: Con há chẳng biết Tôn giả La Hầu La đây là con trai của Thích Ca Như Lai ở trong hàng học giới là tối đệ nhứt ư?

Vô Úy Ðức nói: Thôi đi Phụ Vương chớ nói như vậy. Phụ Vương có thấy nghe sư tử chúa sanh con dã can chăng?

Vua nói: Không hề thấy.

Vô Úy Ðức i: Phụ Vương có thấy có nghe Chuyển Luân Thánh Vương lễ kính chư Tiểu Vương chăng?

Vua nói: Không có.

Vô Úy Ðức i: Ðúng vậy. Như Lai Sư Tử Vương chuyển đại pháp luân chư Thanh Văn cung kính vây quanh.

Nếu y chánh pháp thì ai là chơn tử của đức Như Lai. Thì nên đáp rằng chính là chư Bồ Tát vậy. Vì thế chẳng nên nói đức Như Lai có con hay đức Như Lai không con.

Nếu nói đức Như Lai có chơn tử thì nên nói ai phát tâm Vô thượng Bồ Đề là chơn tử của đức Như Lai.

Lúc nói pháp trên đây, trong cung vua A Xà Thế có hai vạn nữ nhơn phát tâm Bồ Đề, hai vạn Thiên Tử đầy đủ pháp ấy nghe Vô Úy Ðức sư tử hống rồi đều phát tâm Bồ Đề.

Vua A Xà Thế lại nói: Ðây là con trai của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại lìa hẳn phiền não học giới Thanh Văn thế nào chẳng phải chơn tử!

Chư Thiên vì cúng dường Vô Úy Ðức nên rải hoa lên đức Phật khắp thành Vương Xá.

Bấy giờ Vô Úy Ðức rời tòa ngồi đến lễ kính chư đại Thanh Văn rồi dưng cúng các thực phẩm đúng như pháp .

Cúng dường xong, Vô Úy Ðức bạch rằng: Chẳng biết chư Tôn giả đại Thanh Văn cớ chi sáng sớm rời xa đức Phật mà đến chốn nầy, phải nên nghe đức Phật thuyết pháp rồi sẽ đi khất thực. Chư Tôn giả về đi, trong giây lát đây tôi sẽ đến chỗ đức Phật.

Vô Úy Ðức cùng Phụ Vương A Xà Thế và Vương Mẫu vô lượng nhơn chúng đoanh vây xuất thành đến chỗ đức Phật đồng đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi một phía.

Chư Thanh Văn ấy cũng đến lễ chưn Phật rồi ngồi qua một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất tác lễ bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Vô Úy Ðức, cô gái nhỏ đây rất kỳ lạ, được phước lợi rất lớn.

Ðức Phật phán: Nầy Xá Lợi Phất! Vô Úy Ðức đây đã ở nơi chín mươi ức Phật quá khứ phát tâm Bồ Đề vun trồng căn lành để cầu Vô thượng Phật đạo.

n giả Xá Lợi Phất bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Vô Úy Ðức đây có thể chuyển thân nữ ấy chăng?

Ðức Phật phán: Nầy Xá Lợi Phất! Ông thấy Vô Úy Ðức là nữ nhơn ư? Ông chớ có thấy như vậy. Tại sao? Vì Bồ Tát nầy phát nguyện lực mà thị hiện thân nữ nhơn để độ chúng sanh.

Vô Úy Ðức phát thệ rằng: Nếu tất cả pháp chơn thiệt phi nam phi nữ thì khiến nay tôi hiện thân trượng phu cho tất cả đại chúng được thấy.

Thệ xong liền diệt tướng nữ hiện thân trượng phu thăng lên hư không cao bằng bảy cây đa la rồi dừng ở tại đó không xuống.

Ðức Phật phán: Nầy Xá Lợi Phất! Ông có thấy Bồ Tát Vô Úy Ðức trụ tại hư không chẳng xuống ấy chăng?

n giả bạch: Tôi đã thấy, bạch đức Thế n!

Ðức Phật phán: Nầy Xá Lợi Phất! Vô Úy Ðức Bồ Tát nầy lại quá bảy ngàn a tăng kỳ kiếp được thành Chánh giác hiệu Ly Cấu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, thế giới tên Quang Minh, đức Phật ấy thọ trăm kiếp, chánh pháp trụ thế mười kiếp, thuần Bồ Tát Tăng ba vạn bất thối chuyển Bồ Tát, thế giới ấy đất bằng lưu ly thanh tịnh, đường sá tám hướng trang nghiêm phủ với hoa sen báu, không có tên các ác đạo, trời, người đông đầy thọ diệu lạc và thắng pháp vị như trời Ðâu Suất.

Mẹ của Vô Úy Ðức là Nguyệt Quang phu nhơn cùng vua A Xà Thế đồng chắp tay hướng Phật bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Tôi được đại lợi, chín tháng hoài thai người con nầy, nay đại sư tử hống như vậy. Nay tôi đem căn lành ấy hồi hướng Vô thượng Bồ Đề, sau nầy tại thế giới Quang Minh của Phật Ly Cấu tôi sẽ thành đạo Vô thượng Chánh Chơn Chánh giác.

Ðức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: Nầy Xá Lợi Phất! Nguyệt Quang phu nhơn đây sau khi xả thân người sẽ sanh làm thiên tử trời Ðao Lợi hiệu là Quang Minh Tăng Thượng. Lúc Phật Di Lặc xuất thế sẽ là con trai lớn của Ðại Vương thời ấy, cúng dường Phật Di Lặc rồi xuất gia, hay ghi nhớ thọ trì tất cả pháp của Phật Di Lặc tuyên thuyết. Từ đó thứ đệ gặp chư Phật Hiền kiếp và đều cúng dường. Ðến thời kỳ Phật Ly Cấu xuất thế, sẽ hiện thân làm Ðại Vương hiệu Trì Ðịa có đủ bảy báu cúng dường đức Ly Cấu Như Lai, sau đó thành Phật hiệu Biến Quang Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác thành tựu thế giới trang nghiêm như thế giới Quang Minh của Phật Ly Cấu.

Nghe đức Phật thọ ký, Nguyệt Quang phu nhơn vui mừng hớn hở liền cởi chuỗi báu anh lạc giá trị trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường đức Phật, xin phép vua A Xà Thế rồi xuất gia thọ đủ năm trăm chánh giới tu tập phạm hạnh.

Vô Úy Ðức Bồ Tát ở trước đức Phật bạch rằng: Do sức nhơn duyên thệ nguyện nầy khiến thuở vị lai lúc tôi thành Phật chúng Bồ Tát đều mặc pháp phục tất cả hóa sanh. Nếu thệ nguyện trên đây không hư thì khiến nay tôi sẽ hiện thân như niên thiếu Tỳ kheo tám lạp.

Phát nguyện xong, Bồ Tát Vô Úy Ðức liền hiện thân mặc pháp phục thành Tỳ Kheo đầy đủ oai nghi.

Vô Úy Ðức Bồ Tát nói với Phụ Vương A Xà Thế rằng: Tâu Phụ Vương! Tất cả các pháp đều như vậy, tức thì bỗng hóa sanh tướng, rời các tướng được phân biệt sanh khởi, không các điên đảo. Tâu Phụ Vương! Lại liền bây giờ hiện trở lại thân nữ nhơn, Phụ Vương có thấy chăng?

Vua nói: Ðã thấy. Nhưng ta chẳng phải do tướng sắc thân để thấy. Nay ta thấy hiện thân Tỳ Kheo rồi lại thấy thân nữ nhơn trở lại.

Ðức Phật hỏi vua: Nầy Ðại Vương! Thân nào là thiệt? Ðại Vương phải nên học như  vậy  an  trụ  chánh  kiến  đối  với  tất  cả pháp. Các chúng sanh vì bị phiền não thiêu đốt nên chẳng đạt pháp lực.

Vì chẳng đạt nên chẳng phải chỗ nghi mà sanh lòng nghi hối. Phải nên thường thường thân cận Như Lai và Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát, vì do sức oai đức của Bồ Tát ấy mà khiến cho Ðại Vương được thọ hối quá.

Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan: Nầy A Nan! Ông thọ trì pháp môn Vô Úy Ðức Bồ Tát thọ ký nầy đọc tụng chớ quên.

Nầy A Nan! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn đầy đủ thất bửu đem cúng thí chư Phật Như Lai chật khắp Ðại Thiên thế giới được công đức không bằng có người hay thọ trì một câu một kệ pháp môn nầy, huống là người thọ trì đủ hoặc đọc hoặc tụng rộng vì người giảng nói và như pháp tu hành.

Ðức Phật  Thế Tôn nói kinh nầy rồi. Nguyệt Quang phu nhơn mẹ của Vô Úy Ðức tất cả đại chúng Thiên Long Bát Bộ nghe đức Phật dạy xong đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.”[[2]]

Có lẽ không phải phân tích gì thêm bởi hai bài kinh trên đã nói lên thế nào là chánh kiến của Thanh Văn thừa và Bồ Tát thừa. Một sự khác biệt đến lạ lùng nhưng đều là chánh tri kiến.

Tuy rằng khác biệt rất lớn về chánh kiến nhưng lại đồng một vô lậu tâm, đồng một dòng nước pháp, đồng đến biển đại giác, và cuối cùng đồng chứng Vô Thượng Bồ Đề, giống như các dòng sông tuy khác nhau về xuất xứ, dòng chảy, độ rộng sâu, nhưng cuối cùng đều chảy về biển lớn.

Phật đạo là như vậy, chính điều này Phật đạo mới có nhiều tên gọi nhưng đồng một tính chất là thanh tịnh và giải thoát.

[[1]] Trích kinh Chánh Tri Kiến –HT Thích Minh Châu dịch.

[[2]] Trích kinh Đại Bảo Tích –Phẩm Pháp Hội Vô Úy Đức Bồ Tát –HT Thích Trí Tịnh dịch.

(còn nữa)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG