Bát Chánh Đạo Và Mối Liên Hệ Kinh Điển

 0
Bát Chánh Đạo Và Mối Liên Hệ Kinh Điển

Không một tôn giáo nào có nhiều kinh điển như Phật giáo và cũng không một loại kinh điển của tôn giáo nào lại khó hiểu như kinh Phật.

Đã khó hiểu lại quá nhiều đây chính là cản ngại lớn đối với đa số Phật tử, và cũng không có một tôn giáo nào được người đời giải thích lời kinh không giống nhau nhiều như Phật pháp.

Cớ sự này thường đưa đến sự tranh biện giữa những người tu hành với nhau vì bất đồng ý kiến, tuy vậy cái được lớn nhất trong Phật đạo là tuy có sự bất đồng ý kiến nhưng lại không gây ra thù hằn hiềm khích, đó là chỗ cao quý nhất do sức mạnh kinh điển tạo ra trong lòng mỗi Phật tử.

Nói cho cùng mong muốn đầu tiên của kinh điển là giảm bớt và đưa đến triệt tiêu mọi hình thức đấu tranh, cho dù xuất phát từ nguyên nhân nào.

Vì bởi Phật giáo nhận thức đấu tranh là nguyên nhân của mọi khổ đau mà Phật đạo là đạo đưa chúng sanh đến hết khổ đau trong đời này đời sau.

Chính nhận thức khác nhau từ lời kinh mà ba thừa xuất hiện trong giáo pháp, cuối cùng những dị biệt này được đức Phật hóa giải bằng nhất thừa Phật pháp, chỗ hội quy là Vô Thượng Bồ Đề.

Đây là những nét đặc thù trong giáo pháp Thích Ca Mâu Ni. Cũng chính đặc thù này mà có lẽ cũng không một vị giáo chủ nào có nhiều danh hiệu như đức Phật. Điều đó đủ nói lên chỗ cao tột và sâu kín của giáo pháp, nhưng lại có tính phổ biến rất rộng, mười danh hiệu của Phật là sự vinh danh tối thượng của ba cõi.

Có lẽ còn rất lâu và chắc là lâu lắm mới có một sự vinh danh tương tự để chúng sanh được nhìn thấy và chiêm ngưỡng.

Nếu bát chánh đạo được coi như chiếc nôi sản sanh ra thánh quả, đồng thời cũng là môi trường sống của thánh đạo, thì ngữ ngôn của Phật giáo không vượt ra khỏi môi trường này.

Vì thế nếu một chúng sanh được sinh ra và lớn lên từ môi trường với tất cả đời sống, sinh hoạt, văn hóa, cách nghĩ suy, hay tập quán khác thì không dễ gì có thể hiểu văn hóa của một loài, mà văn hóa đó không giống thứ văn hóa mình đang thụ hưởng.

Ví như một con cá, văn hóa của nó là thứ văn hóa thủy tộc, khi nói đến chữ đi để chỉ cho sự di chuyển mà di chuyển của con cá là bơi lội thì không dễ gì con nai, một loài được sinh ra từ văn hóa sơn lâm có thể hiểu thấu đáo động từ này.

Gần gũi hơn ví như một đứa trẻ có cha mẹ là người Việt nhưng đứa trẻ đó sinh ra và lớn lên ở Mỹ, được học tập thấm nhuần văn hóa Mỹ, cho dù đứa trẻ này có bao nhiêu học hàm học vị của đất nước Mỹ, thì cũng không thể nào khi đọc một cuốn sách của người Việt có thể hiểu hết ý nghĩa của cuốn sách thuần tinh thần Việt này. Nếu cố hiểu thì nhất định hiểu sai, thậm chí sai lệch rất xa.

Muốn hiểu biết trọn vẹn chỉ một cách duy nhất là đến quê hương sản sinh ra cuốn sách và sống trong môi trường này một thời gian dài như một người dân bản xứ. Đến khi mọi sinh hoạt của đời sống từ văn hóa tình cảm ăn ngủ giống như người bản địa, thì may ra lúc đó đọc cuốn sách mới có thể lãnh hội phần nào tinh thần của cuốn sách.

Thì cũng vậy kinh điển Phật giáo và người đời tương tự như vậy. Phật dạy chúng sanh bản lai đầy đủ đức tính như một Như Lai, nhưng nhiều đời lăn lộn trong ba cõi đến bây giờ tiêm nhiễm văn hóa ba cõi. Một thứ văn hóa trái ngược với đức tính xưa thì không dễ gì lãnh hội ý nghĩa từ lời nói của cộng đồng lớn lên, và dưỡng nuôi bởi văn hóa vô lậu được mệnh danh là “thánh” này.

Ngược lại người đời càng tự hào về trí khôn ba cõi bao nhiêu càng hiểu sai thâm nghĩa của kinh bấy nhiêu, vì lời kinh không dùng cho loại trí khôn này. Nếu muốn thấu đạt, người đó phải tập sống trong môi trường sản sanh ra kinh điển đến khi nào thích nghi hoàn toàn môi trường này mới mong thấu đáo trọn vẹn lời kinh.

Vì thế người tu hành khi đọc kinh không thể hiểu hoặc hiểu sai ý nghĩa là điều đương nhiên. Tuy kinh là loại ngữ ngôn từ một thứ văn hóa khác, nhưng cũng không thiếu những bài kinh dùng để diễn đạt ý nghĩa cho người cõi này hiểu và phù hợp với văn hóa con người. Loại kinh này mọi người đọc có thể hiểu được, đây thường là kinh dạy căn bản tu hành.

Ví dụ như kinh dạy giữ giới, mười điều thiện, đó là những kinh dạy cách thức thiết lập một môi trường chuẩn gần giống với môi trường gốc của kinh để người đời tập sống, tập thích nghi với thứ văn hóa trong kinh, sau đó mới có thể hiểu trọn vẹn ngữ ngôn kinh điển.

Thế nhưng một khuyết điểm rất lớn đó là người đời luôn lấy trí khôn để cảm nhận lời kinh hơn là hành động thực tế. Ví dụ như kinh Thập Thiện, khi nói đến mười điều thiện thì mọi người tu hành đều đọc vanh vách mười điều này và diễn giải mới nghe qua rất thâm thúy cao siêu, nhưng trong đời sống thực tế thấm nhuần bao nhiêu phần thì phải coi lại.

Phật giáo không cần sự thuộc lòng mà cần sự ứng dụng thực tế và thâm nhập đến bao giờ nó trở thành thứ văn hóa ứng xử trong mọi hoạt động, thì bây giờ mới gọi là hiểu thâm nghĩa của thập thiện. Vì thế hai chữ “thành tựu” của Phật giáo không có gì thâm sâu huyền bí, chỉ cần làm đúng như lời kinh dạy mọi thứ sáng tỏ.

Ở đây không cần một tri thức bác học mà cần một thực tế sống, vì thế kinh thường khuyến cáo phải xa rời “danh tướng,” tức xa rời những khẩu hiệu suông mà ba cõi thường dùng để khoa trương tri thức hơn là thực chứng. Nếu nói như vậy thì người đời không thể hiểu kinh Phật hay sao?

Điều này chỉ đúng một phần, nói một phần vì Phật thuyết kinh cho người đời chứ không phải Phật thuyết kinh cho chính mình, vì thế cụm từ “Thiện Tri Thức” ra đời. Mọi người có thể hiểu nghĩa kinh với điều kiện cần có một “thông dịch viên” thông thạo ngôn ngữ kinh và hiểu rõ môn “sư phạm” của Phật giáo.  Đây là người thầy giải mã ngữ ngôn ẩn mật của kinh và dạy ý nghĩa ứng dụng như pháp vừa đúng sức lãnh hội người nghe theo từng thời điểm nhất định, kinh gọi là hợp căn hợp cơ hợp thời.

Vì thế Phật luôn luôn nhắc nhở trong kinh là phải tầm cầu, gần gũi cúng dường thiện tri thức. Cho đến như Thiện Tài Đồng Tử trong kinh Hoa Nghiêm, Tát Đà Ba Luân trong kinh Đại Bát Nhã, tiền thân Bồ Tát đi cầu đạo trong kinh Đại Niết Bàn là những vị đã đạt đến những địa vị nhất định vẫn phải cầu thiện tri thức.

Vì vậy vai trò thiện tri thức không thể thiếu đối với người tu hành chân chính. Chữ thiện tri thức là một danh từ đặc trưng của Phật giáo, danh xưng này chỉ cho người thấu suốt thiện pháp của Phật, tức các môn giải thoát. Người này có đủ năng lực giúp chúng sinh đi đúng chánh đạo để thành tựu những điều cần thiết trong đời sống tu hành. Người có khả năng giúp ra khỏi sanh tử phiền não gọi là thiện tri thức.

Người có năng lực giúp đến Vô Thượng Bồ Đề gọi là đại thiện tri thức. Có đôi khi kinh cũng có nói hết thảy chúng sinh là thiện tri thức của Bồ Tát, đây là ngữ ngôn ẩn dụ không thể hiểu như một giáo lệnh. Câu nói này có ý nghĩa nhờ có chúng sanh mà Bồ Tát thực hành đầy đủ hạnh nguyện để viên thành vô thượng đạo chứ không phải Bồ Tát học đạo pháp từ nơi chúng sanh.

Giống như có thể nói: Nhờ có học trò mà có thầy giáo, điều này hàm ý nhờ có những người đi học mà thầy giáo không thất nghiệp, hoàn toàn không có nghĩa thầy giáo học nơi học trò mà thành tựu tri thức.

Bát chánh đạo được mệnh danh là độc đạo an ổn và bất tử như chư Thiên thường khen ngợi. Đây là con đường để đi vừa là đích đến của mọi thánh vị, vì thế tập một đời sống như bát chánh đạo là rất cần thiết nếu muốn hưởng lợi ích từ kinh điển và tu hành.

Khi nào có được môi trường phù hợp chân lý mới có một đời sống sản sinh trí tuệ phù hợp với người đi tìm chân lý. Nếu lìa xa môi trường này cầu mong thành tựu điều gì đó trong Phật đạo làm cơ sở thấu đạt kinh điển để ứng dụng tu hành là một thực tế không khả thi, giống như đứa trẻ không muốn đến trường lại mong mỏi trở thành người trí thức.

Có một điều trớ trêu trong đời khi quan sát bọn trẻ con chơi trò học tập, chúng tự lập nhóm đề cử một đứa trong bọn làm thầy cô giáo và những đứa còn lại là học trò. Bọn trẻ chơi trò học tập giống như một lớp học, cũng học tập miệt mài cũng ca hát nhảy múa, nhưng tất nhiên chúng chẳng học được điều gì ở đây vì bởi cô giáo chưa biết chữ và học trò chưa ý thức trường lớp là gì. Chúng say sưa học như vậy đến quên ăn ngủ, cũng chính những đứa trẻ này, khi đến tuổi cha mẹ đưa chúng đến trường để học thật sự thì chúng phản ứng quyết liệt, khóc la giãy nẩy coi việc đi học như một cực hình.

Điều gì lại xảy ra ở đây? Tại sao học chơi lại say mê, học thật thì không thích? Có lẽ đối với người lớn không cần phải giải thích hiện tượng này, vì bởi môi trường bè bạn sinh hoạt của việc học đùa quen thuộc với chúng và tự chúng bày ra theo sở thích.

Đây chỉ là trò đùa nên việc học tập không cần đúng sai động não tư duy, không can dự đến siêng năng hay lười biếng, và quan trọng nhất sự học ở đây chỉ là trò chơi không cần nội quy hay luật lệ. Điều làm chúng say mê vì phù hợp với bản tính phóng dật không chịu khép mình vào khuôn khổ, cả thầy lẫn trò đều phóng dật như nhau kể cả trong cách hiểu các con chữ.

Quan sát cảnh tượng này thấy có cái gì đó gần giống với một số người tu hành. Thao thao bất tuyệt với nhau về Phật pháp bằng cách say mê rao giảng lý sự theo cách hiểu riêng tư không dựa vào chuẩn mực nào dù nhỏ nhất, thậm chí coi đây mới là chân lý.

Nhìn vào thứ chân lý họ luận biện với nhau khác hẳn với gì họ thể hiện, thừa tham sân si, thiếu hẳn trí tuệ, đầy đủ phóng dật, thiếu hẳn khuôn phép, phóng dật trong lời nói lẫn ý nghĩa, giống như cô giáo giả dạy chữ học trò. Chúng giảng dạy nhau điều mình chưa biết, nếu đưa những vị này vào đời sống tu hành nghiêm túc sẽ giống những đứa trẻ kia, nhất định giãy nẩy kiếu từ với vô vàn lý do nếu cần sẽ biện minh quyết liệt chân lý không cần phải khuôn phép hay chuẩn mực như vậy!

Tóm lại, hiểu và sống theo bát chánh đạo đối với người tu hành trong Phật đạo là rất quan trọng, giống như cá với nước. Khi hai thứ này làm nhân quả cho nhau sẽ sinh ra thứ trí tuệ luôn hướng về kinh điển. Giống như người ta trồng dây khoai lang hay bầu bí rồi đem một cái thúng có khoét lỗ úp lại, thời gian sau sẽ thấy dây bầu hay bí theo cái lỗ thoát ra ngoài hướng về phía mặt trời, vì sao như vậy? Vì nhu cầu quang hợp để sống, mà nhu cầu này chỉ có thể đáp ứng từ phía mặt trời.

Người tu hành trồng cây vô lậu, tự khép mình trong bát chánh đạo, thời gian nào đó tám nhánh này sẽ trưởng thành và hướng đến huệ nhựt của chư Phật đó là kinh điển.

Đây là nhu cầu vươn tới thánh trí để tồn tại, sự vươn tới này không dừng lại vì bởi càng vươn tới càng trưởng thành, càng trưởng thành càng thấm nhuần. Khó khăn bây giờ là không được tiếp tục vươn mình vào mặt trời trí tuệ chư Phật, chứ không phải sự khó hiểu bởi ý nghĩa ngữ ngôn của một loại văn hóa khác. Vì văn hóa và ngữ ngôn mà người đời gọi là khác và khó hiểu không còn  hiện hữu trong môi trường bát chánh.

Tại sao khi thích nghi môi trường bát chánh thì kinh điển không còn xa lạ và khó hiểu nữa? Trong Phật pháp rất nhiều người hiểu 37 phẩm và tứ đế là một loại giáo khoa, còn kinh điển là loại ngữ ngôn mang ý nghĩa thâm u và dường như hai thứ này không hoặc rất ít liên hệ với nhau.

Học tứ đế và 37 phẩm giống như trả bài còn kinh điển để làm giàu ngôn thuyết, giống như hai môn tự nhiên và xã hội. Hiểu như vậy không sai nhưng nếu hiểu kinh điển là phần giải thích rộng sâu của tứ đế và 37 phẩm thì hình như thấu tình đạt lý hơn và sẽ có phương tiện ứng dụng.

Sở dĩ có bát chánh đạo là vì đây là thành quả cuối cùng của 37 phẩm, hay khác hơn bát chánh đạo là tinh hoa của 37 phẩm, cho nên trong bát chánh có đủ ý vị của 37 phẩm.

Tứ đế chính là quy trình hay linh hồn của 37 phẩm, có nghĩa 37 phẩm dựa trên tứ đế mà thành lập. Đây là công nghệ xử lý theo quy trình bốn đế cho nên pháp tư lương tương ưng khổ tập đế, kiến đạo tương ưng diệt đế, tu đạo tương ưng đạo đế.

Kinh điển chỉ là hình thức giảng giải cho ba thừa hiểu rõ bốn đế và 37 phẩm, tùy theo địa vị mà có lúc giảng rộng có lúc giảng sâu. Có thể phân chia kinh điển Phật giáo theo các nhóm rộng sâu như sau:

• Nhóm kinh thuộc thế pháp.

Nhóm kinh này gồm các kinh giáo phàm phu từ nhân thừa lên thiên thừa như nhóm giảo lượng công đức, ngũ giới, thập thiện, và các kinh tương ưng chư thiên. Nhóm kinh này không đề cập nhiều đến tri kiến giải thoát, nếu có đề cập chỉ giới thiệu sơ lược. Nhóm này nói nhiều về khổ thế gian và thiên giới là cảnh giới tốt đẹp, khuyến khích người đời làm lành lánh dữ, bỏ ác theo thiện, tập bố thí cúng dường coi như tích phước đời sau.

• Nhóm kinh giáo nhị thừa.

Nhóm kinh này phần lớn nằm trong tạng Nikaya, nhóm kinh này thuyết minh đầy đủ bốn đế và 37 phẩm theo phong cách giáo nhị thừa là cặn kẽ, chia chẻ, và đặt niềm tin tuyệt đối vào thánh pháp và thánh luật. Quả chứng tiêu biểu trong tạng này là A La Hán.

• Nhóm kinh giáo Bồ Tát quyền thừa

Nhóm kinh này nâng tri kiến Thanh Văn lên một tầm cao hơn cùng thuyết chung Bồ Tát quyền thừa. Phần lớn kinh này ít nói đến khổ, đặt nặng tập nhân, chỉ ra tâm mê là đầu mối mọi sai lầm gọi là đế. Trong bốn đế nói một phần khổ, triển khai ý nghĩa của tập, chú trọng nhiều đến diệt đế, giới thiệu sơ lược đạo đế, về 37 phẩm đào sâu pháp tư lương và kiến đạo, đặt nặng phần giác ngộ và tu chứng của thất giác chi.

Nhóm này gồm các kinh tiêu biểu trong hệ phương đẳng như Thủ Lăng Nghiêm, Lăng Già, một phần Đại Bát Nhã. Nhóm kinh này ra đời giải quyết hai tướng là ngã tướng và nhân tướng, giới thiệu chúng sanh tướng và thọ giả tướng nhưng chưa đưa ra phương hướng trừ sạch hai tướng này, có thể nói nôm na đây là giai đoạn minh tâm (tâm trong sạch hết cấu uế).

• Nhóm kinh giáo chung nhị thừa và Bồ Tát quyền thừa.

Đưa ba thừa vào chuẩn chung là tâm sinh pháp sau đó tách tâm pháp khỏi nhau (phi), đề ra phương hướng làm sạch tâm bằng thân chứng pháp vô ngã thông qua con đường của nghĩa không thuộc hệ Bát Nhã. Nhóm kinh này đặt nặng diệt đế và đạo đế, về 37 phẩm đào sâu thất giác chi và bát chánh đạo.

Nhóm này có các kinh tiêu biểu như Đại Bát Nhã, một phần Lăng Già. Nhóm này có khuynh hướng giải quyết hai tướng còn lại là chúng sanh tướng và thọ giả tướng. Có đề ra phương hướng giải quyết hai tướng này, đây là tiền đề bước vào giai đoạn kiến tánh.

• Nhóm kinh giáo Bồ Tát nhất thừa.

Hệ kinh này tên ba thừa không còn, giống như các con sông khi vào biển lớn mất tên riêng.  Kinh này đề cập phần ít về tập đế, quảng diễn rộng sâu đạo đế thông qua hình thức nhất thiết trí. Nhóm kinh này thuộc hệ phương quảng tuyên thuyết bát chánh đạo của Bồ Tát và Bồ Tát nhất thừa.

Các kinh tiêu biểu như Pháp Hoa, một phần Đại Bát Nhã, Viên Giác, Đại Bảo Tích. Các kinh này đào sâu sáu Ba La Mật, giới thiệu các tự môn làm tiền đề để viên mãn nhất thiết trí. Nhóm kinh này làm sạch tuyệt đối bốn tướng, thành tựu rốt ráo hai không là nhân không và pháp không vào hẳn địa vị kiến tánh.

Riêng kinh Hoa Nghiêm thuộc hệ phương quảng nhưng đặc trưng kinh này là pháp lệnh giáo dục của châu kỷ Thích Ca Mâu Ni các Đại Bồ Tát đều phải học và y đây thi hành. Có thể coi đây là giáo trình khung, khi giảng dạy các Bồ Tát phải căn cứ trên các cấp học và bậc học (thập trụ, thập tín, thập nguyện, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa) của kinh để giáo dạy ba cõi trên khung sườn bốn đế.

Tùy điều kiện thực tế của mỗi địa phương và năng lực học sinh, thầy giáo có thể giảng dạy bằng các phương pháp khác nhau gọi là hợp căn hợp cơ hợp thời. Có thể chia 37 phẩm một cách linh hoạt không bó buộc tiết dạy, giáo dạy bằng hình thức như vậy gọi là khế kinh.

Kinh này giúp Bồ Tát viên mãn thập Ba La Mật. Đặc tính của kinh này là hướng Bồ Tát vào địa vị kiến Phật tánh, tức thấy hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Giống như người thợ điêu khắc thấy tượng Phật ẩn chứa trong các gốc cây, người thợ điêu khắc thiện xảo sẽ đẽo gọt bất kỳ gốc cây nào cũng thành thánh tượng mà người đời không thể làm được.

Cho nên hàng Bồ Tát thấu suốt kinh này dạy người không phi thời, từ một phàm phu có thể đẽo gọt thành thánh nhân chỉ vì thấy được Phật tánh trong mỗi chúng sanh. Vì thế theo lịch sử khi vừa thành Đẳng Chánh Giác, Phật chưa vội rời cội Bồ Đề mà Phật tập hợp các vô vi Bồ Tát giảng nói kinh này.

Trước khi nhập Đại Niết Bàn một lần nữa Phật tuyên nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh,” và trong kinh Đại Niết Bàn Phật có gởi đi thông điệp: “Trước khi thọ thực, thân Bồ Tát là nhục thân, sau khi thọ thực Bồ Tát nhập Kim Cang tam muội tiêu hóa thức ăn biến nhục thân thành Kim Cang thân, thấy Phật tánh thành đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.”

Vì vậy Phật là đấng Điều Ngự Trượng Phu hay có thể nói là Đại Điêu Khắc sư vậy.

Trong phạm vi bài luận chỉ có thể khái quát các nhóm kinh để thấy được mối liên hệ giữa kinh điển và các đề mục giáo khoa, nhằm tránh hiểu lầm có một tứ đế và 37 phẩm riêng và một hệ thống kinh điển riêng lẻ.

Thực tế để thấu suốt các nhóm kinh và những kinh nào thuộc nhóm nào, dạy cái gì cần có thời gian đọc tụng thẩm thấu các loại kinh Phật mới có thể hình dung một cách trọn vẹn. Nhiều khi trong một cuốn kinh lại có bóng dáng của nhiều nhóm và giáo dạy nhiều tầng bậc, nên khi chia nhóm chỉ mang tính tượng trưng để dễ tìm hiểu đọc tụng hơn là xác định chính thức nhóm kinh.

Vì đặc trưng của Phật giáo là đạo nhất thừa, hai ba thừa chỉ là quyền phương tiện nên hầu như bài kinh nào Phật cũng để vị nhất thừa trong đó, chỉ vì người đọc có nhận ra hay không mà thôi, giống như gốc cây nào đối với thợ điêu khắc thiện xảo đều có hình tượng tốt đẹp trong đó nhưng người thường chỉ thấy đó là gốc cây. Giống  như  viên ngọc  quý  tự  thân không màu, nhưng khi có chút ánh sáng lại chiếu đủ các màu chỉ vì người nhìn không hết.

Kinh Phật cũng như thế, viên ngọc Thích Ca Mâu Ni không màu nhưng khi chiếu vô vàn ảnh tượng, đó là sự kỳ bí của thế giới hoa tạng, chỉ có Đại Bồ Tát mới may ra hiểu thấu vài phần trong pháp lệnh giáo dục vô tướng này.

Nói đến bát chánh đạo hay 37 phẩm mà tượng trưng là chánh tri kiến không phải nhằm định nghĩa chánh tri kiến là cái gì, giống như kiểu định nghĩa của từ điển.

Chánh tri kiến của Phật giáo là xác định sự thấy biết có chỉ thú, không phải sự thấy biết của mông muội hay như thế gian hiểu Phật pháp.

Xác định con đường sẽ đi qua, phương hướng mục tiêu sẽ đến, thuận lợi và khó khăn trong toàn bộ hành trình. Biết như thật những điều này gọi là chánh tri kiến.

Đây là kim chỉ nam của kinh điển, là hoa trái đầu tiên của 37 phẩm và đạo của đạo đế nên chánh tri kiến chính là mắt sáng của người đi đường, là ngọn đuốc trong đêm, là trí tuệ của Phật pháp.

Dưới đây là đoạn trích trong kinh Hoa Nghiêm, xin giới thiệu như một phần nhỏ pháp lệnh giáo dục của Thích Ca Mâu Ni, Đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tuyên đọc giáo trình chuẩn:

“Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Ðại Bồ Tát bảo chư Bồ Tát rằng: “Chư Phật tử! Khổ Thánh Đế, trong cõi Ta Bà này, hoặc gọi là tội, là bức ngặt, là biến dị, là phan duyên, là nhóm, là đâm, là căn tựa, là hư dối, là chỗ nhọt ghẻ, là kẻ ngu si.

Chư Phật tử! Khổ Tập Thánh Đế, cõi Ta Bà này, hoặc gọi là trói buộc, là diệt hoại, là ái trước, là vọng-niệm, là thú nhập, là quyết định, là lưới, là hí luận, là tùy hành, là gốc điên đảo.

Chư Phật tử! Khổ Diệt Thánh Đế, cõi Ta Bà này, hoặc gọi là Vô tránh, là ly trần, là tịch tịnh, là vô tướng, là vô một, là vô tự tánh, là vô chướng ngại, là diệt, là thể chơn thật, là trụ tự tánh.

Chư Phật tử! Khổ Diệt Ðạo Thánh Đế, cõi Ta Bà này, hoặc gọi là Nhứt Thừa, là thú tịch, là đạo dẫn, là cứu cánh vô phân biệt, là bình đẳng, là xả đm, là vô sở thú, là tùy thánh ý, là tiên nhơn lành, là thập tạng.

Chư Phật tử! Nơi cõi Ta Bà này nói về tứ thánh đế có bốn trăm ức mười ngàn danh từ, theo tâm ý của chúng sanh khiến họ được điều phục.

Chư Phật tử! Như cõi Ta Bà này nói về khổ thánh đế, trong thế giới Mật Huấn hoặc gọi là doanh cầu căn, là bất xuất ly, là hệ phược bổn, là làm điều không nên làm, là khắp tranh đấu, là phân tích đều vô lực, là chỗ để tựa, là cực khổ, là tháo động, là hình trạng vật.

Chư Phật tử! Về khổ tập thánh đế, trong thế giới Mật Huấn, hoặc gọi là thuận sanh tử, là nhiễm trước, là đốt cháy, là lưu chuyển, là gốc bại hoại, là mối hữu lậu, là ác hạnh, là ái trước, là nguồn bịnh, là phân số.

Chư Phật tử! Về Khổ diệt thánh đế, trong thế giới Mật Huấn, hoặc gọi là đệ nhất nghĩa, là xuất ly, là tán thán, là an ổn, là thiện thú nhập, là điều phục, là nhứt phần, là vô tội, là ly tham, là quyết định.

Chư Phật tử! Về khổ diệt đạo thánh đế, trong thế giới Mật Huấn hoặc gọi là mãnh tướng, là thượng hạnh, là siêu xuất, là hữu phương tiện, là bình đẳng nhãn, là ly biên, là liễu ngộ, là nhiếp thủ, là tối thắng nhãn, là quán phương.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở thế giới Mật Huấn có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh để khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Về khổ thánh đế, ở thế giới Tối Thắng, hoặc gọi là khủng bố, là phần đoạn, là khả yểm ố, là phải thừa sự, là biến dị, là chiếu dẫn oan, là hay khi đoạt, là khó cộng sự, là vọng phân biệt, là có thế lực.

Chư Phật tử! Về khổ tập thánh đế, ở thế giới Tối Thắng, hoặc gọi là bại hoại, là si căn, là đại oan, là dao bén, là dứt mùi vị, là cừu thù, là chẳng phải vật của mình, là ác đạo dẫn, là thêm đen tối, là hư lợi lành.

Chư Phật tử! Về khổ diệt thánh đế, ở thế giới Tối Thắng, hoặc gọi là đại nghĩa, là nhiêu ích, là nghĩa trung nghĩa, là vô lượng, là chỗ phải thấy, là ly phân biệt, là tối thượng điều phục, là thường bình đẳng, là khả đồng trụ, là vô vị.

Chư Phật tử! Về khổ diệt đạo thánh đế, ở thế giới Tối Thắng, hoặc gọi là hay đốt cháy, là tối thượng phẩm, là quyết định, là vô năng phá, là thâm phương tiện, là xuất ly, là bất hạ liệt, là thông đạt, là giải thoát tánh, là năng độ thoát.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tối Thắng, về tứ thánh đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về khổ thánh đế, hoặc gọi là hối hận, là tư đãi, là triển chuyển, là trụ thành, là nhứt vị, là phi pháp, là cư trạch, là chỗ vọng trước, là thấy hư vọng, là không có số.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là vật không thật, là chỉ có lời nói, là chẳng trong trắng, là sanh địa, là chấp thủ, là bỉ tiện, là tăng trưởng, là gánh nặng, là hay sanh, là thô rắn.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là vô đẳng đẳng, là khắp trừ sạch, là ly cấu, là tối thắng căn, là xưng hội, là không tư đãi, là diệt hoặc, là tối thượng, là tất cánh, là phá noãn.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là vật kiên cố, là phương tiện phần, là giải thoát bổn, là bổn tánh thật, là chẳng thể chê mắng, là rất thanh tịnh, là mé hữu lậu, là toàn nhận gởi, là làm rốt ráo, là tịnh phân biệt.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, tứ thánh đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở Phong Dật thế giới, về khổ thánh đế, hoặc gọi là chỗ ái nhiễm, là gốc hiểm hại, là phần biển hữu lậu, là chứa nhóm lên, là gốc sai biệt, là tăng trưởng, là sanh diệt, là chướng ngại, là cây đao gươm, là số làm thành.

Chư Phật tử! Ở thế giới Phong Dật, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là đáng ghét, là danh tự, là vô tận, là phân số, là chẳng đáng ưa, là hay chụp cắn, là vật thô bỉ, là ái trước, là khí cụ, là dao động.

Chư Phật tử! Ở thế giới Phong Dật, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là dứt tương tục, là khai hiển, là vô văn tự, là vô sở tu, là vô sở kiến, là vô sở tác, là tịch diệt, là đã đốt sạch, là xả trọng đảm, là đã trừ hoại.

Chư Phật tử! Ở thế giới Phong Dật, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là hạnh tịch diệt, là hạnh xuất ly, là siêng tu chứng, là đi an ổn, là vô lượng thọ, là khéo rõ biết, là đạo cứu cánh, là khó tu tập, là đến bờ kia, là vô năng thắng.

Chư Phật tử! Ở thế giới Phong Dật, về tứ thánh đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm chúng sanh, khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về khổ thánh đế, hoặc gọi là hay cướp dựt, là bạn chẳng lành, là nhiều khủng bố, là những hí luận, là địa ngục tánh, là không thật nghĩa, là gánh tham dục, là gốc sâu nặng, là tùy tâm chuyển, là bổn trống rỗng.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là tham trước, là ác thành biện, là quá ác, là tốc tật, là hay chấp thủ, là tưởng, là có quả, là vô khả thuyết, là vô khả thủ, là lưu chuyển.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là bất thối chuyển, là ly ngôn thuyết, là vô tướng trạng, là khả hân lạc, là kiên cố, là thượng diệu, là ly si, là diệt tận, là viễn ác, là xuất ly.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là ly ngôn, là vô tránh, là giáo đạo, là thiện hồi hướng, là đại thiện xảo, là sai biệt phương tiện, là như hư không, là tịch tịnh hạnh, là thắng trí, là năng liễu nghĩa.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở Nhiếp Thủ thế giới có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh, khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về khổ thánh đế, hoặc gọi là trọng đảm, là chẳng bền, là như giặc, là lão tử, là ái sở thành, là lưu chuyển, là mệt nhọc, là tướng trạng ác, là sanh trưởng, là dao bén.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là bại hoại, là hỗn trược, là thối thất, là vô lực, là tang thất, là oai vi trần, là bất hòa hợp, là sở tác, là thủ, là ý dục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là xuất ngục, là chơn thật, là ly nạn, là phúc hộ, là ly ác, là tùy thuận, là căn bổn, là xả nhơn, là vô vi, là không tương tục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là đạt vô sở hữu, là nhứt thiết ấn, là tam muội tạng, là đắc quang minh, là bất thối pháp, là năng tận hữu, là quảng đại lộ, là năng điều phục, là hữu an ổn, là gốc bất lưu chuyển.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở thế giới Nhiêu Ích, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tiển Thiểu, về khổ thánh đế, hoặc gọi là hiểm lạc dục, là chỗ hệ phược, là tà hạnh, là tùy thọ, là vô tâm sĩ, là tham dục căn, là hằng hà lưu, là thường phá hoại, là tánh khói lửa, là nhiều ưu não.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tiển Thiểu, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là quảng địa, là năng thú, là viễn huệ, là lưu nạn, là khủng bố, là phóng dật, là nhiếp thú, là trước xứ, là trạch chủ, là liên phược.

Chư Phật tử! Ở Tiển Thiểu thế giới, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là sung mãn, là bất tử, là vô ngã, là tự tánh, là phân biệt tận, là an lạc trụ, là vô hạn lượng, là đoạn luân chuyển, là tuyệt hành xứ, là bất nhị.

Chư Phật tử! Ở Tiển Thiểu thế giới, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là đại quang minh, là diễn thuyết hải, là giản trạch nghĩa, là hòa hiệp pháp, là ly thủ trước, là đoạn tương tục, là quảng đại lộ, là bình đẳng nhơn, là tịnh phương tiện, là tối thắng kiến.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở Tiển Thiểu thế giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỉ, về khổ thánh đế, hoặc gọi là lưu chuyển, là xuất sanh, là thất lợi, là nhiễm trước, là trọng đảm, là sai biệt, là nội hiểm, là tập hội, là ác xá trạch, là khổ não tánh.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỉ, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là địa, là phương tiện, là phi thời, là phi thật pháp, là vô để, là nhiếp thủ, là ly giới, là phiền não pháp, là hiếp liệt kiến, là cấu tụ.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỉ, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là phá y chỉ, là bất phóng dật, là chơn thật, là bình đẳng, là thiện tịnh, là vô bịnh, là vô khúc, là vô tướng, là tự tại, là vô sanh.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỉ, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là nhập thắng giới, là đoạn tập, là siêu đẳng loại, là quảng đại tánh, là phân biệt tận, là thần lực đạo, là chúng phương tiện, là chánh niệm hạnh, là thường tịch lộ, là nhiếp giải thoát.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở Hoan Hỉ thế giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Quan Thược, về khổ thánh đế, hoặc gọi là bại hoại tướng, là như phố khí, là ngã sở thành, là chư thú thân, là sát lưu chuyển, là chúng ác môn, là tánh khổ, là khả khí xả, là vô vị, là lai khứ.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là hành, là phẩn độc, là hòa hiệp, là thọ chi, là ngã tâm, là tạp độc, là hư xưng, là oai vị, là nhiệt não, là kinh hãi.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là vô tích tập, là bất khả đắc, là diệu dược, là bất khả hoại, là vô trước, là vô lượng, là quảng đại, là giác phần, là ly nhiễm, là vô chướng ngại.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là an ổn hạnh, là ly dục, là cứu cánh thật, là nhập nghĩa, là tánh cứu cánh, là tịnh hiện, là nhiếp niệm, là thu giải thoát, là cứu tế, là thắng hạnh.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở Quan Thược thế giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về khổ thánh đế, hoặc gọi là dấu lỗi, là thế gian, là sở y, là ngạo mạn, là tánh nhiễm trước, là dòng chảy mau, là chẳng vui được, là che dấu, là mau diệt, là khó điều.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về khổ tập thánh đế, hoặc gọi là cần chế phục, là tâm thú, là năng phược, là tùy niệm khởi, là đến hậu biên, là cộng hòa hiệp, là phân biệt, là môn, là phiêu động, là ẩn che.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về khổ diệt thánh đế, hoặc gọi là vô y xứ, là bất khả thủ, chuyển hườn, là ly tránh, là tiểu, là đại, là thiện tịnh, là vô tận, là quảng bác, là vô đẳng giá.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về khổ diệt đạo thánh đế, hoặc gọi là quan sát, là năng tồi địch, là liễu tri ấn, là năng nhập tánh, là nan địch đối, là vô hạn nghĩa, là năng nhập trí, là hòa hiệp đạo, là hằng bất động, là thù thắng nghĩa.

Chư Phật tử! Về tứ thánh đế, ở Chấn Âm thế giới có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng sanh khiến họ điều phục.

Chư Phật tử! Như cõi Ta Bà này nói tứ thánh đế có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu, cũng vậy, mười phương tất cả vô lượng, vô biên, bất khả thuyết thế giới, tận pháp giới hư không giới, trong mỗi thế giới nói tứ thánh đế đều có bốn trăm ức mười ngàn danh từ, tùy tâm ý của chúng sanh khiến họ được điều phục.”[[1]]

Các hệ kinh trong Phật giáo nói gì?

Khi đọc kinh thắc mắc thường vấn vương trong lòng người đọc là cùng một vấn đề ở bài kinh này thì xác định, nhưng trong kinh khác lại phủ định, lúc nói rằng có lúc bảo không.

Những thắc mắc thường trực này làm người đọc cảm thấy khó hiểu và nản lòng, giống như đứng giữa ngã tư đường lúc bảo đi đường này lúc bảo đi đường kia.

Ví dụ như trong kinh giáo Thanh Văn thì nói phải yểm ly ngũ ấm để các khổ uẩn này chấm dứt, nhưng trong kinh Đại Bát Nhã thì lại bảo ngũ uẩn giai không, hoặc chuyện cái ngã lúc nói có lúc nói không, các pháp cũng như vậy.

Phải hiểu như thế nào mới đúng, hàng loạt vấn đề xuất hiện trong kinh, sự thật các điều này ra sao?

Trong chừng mực nào đó, Phật giáo là tiến trình tu hành có thứ lớp, mang tính giáo khoa từ thấp lên cao, tùy cấp lớp mà một vấn đề được giảng dạy khác nhau. Còn nhớ ngày xưa khi học tiểu học thì hai đơn vị khác nhau không được làm phép trừ, ví như ba con gà không thể trừ hai con vịt, nhưng khi lên trung học thì hai nhóm đơn vị này có thể trừ nhau; hoặc cấp tiểu học, số nhỏ không thể trừ số lớn, ví như ba không thể trừ năm, nhưng lên trung học thì phép tính này được công nhận.

Phật giáo cũng có một vài phần tương tự, khi giáo Thanh Văn thừa thì mọi thứ phải cụ thể, ngũ ấm được phân tích tỉ mỉ chia chẻ thứ lớp trước sau gồm sắc thọ tưởng hành thức và phải thứ tự yểm ly từng món một.

Nhưng giáo Bồ Tát thì ngược lại, đồng là ngũ ấm nhưng Phật chỉ nói hai món thân (sắc) tâm (thọ tưởng hành thức).

Khi quán thân thì không dạy yểm ly mà lại dạy quán thân đồng như hư không, quán tâm chỉ có danh tự, tánh danh tự rỗng không, khi phép quán thành tựu lại được kết luận ngũ uẩn giai không.

Ngã cũng vậy, với Thanh Văn phải xác định là món thật có cần phải yểm ly các pháp để ngã không hiện.

Khi giáo Bồ Tát thì phải quán sát chúng sanh không tâm không ngã.

Vì sao lại có sự trái ngược này?

Thật ra Phật giáo không hề chủ trương bảo rằng có hay không, nói có không chỉ vì chúng sanh chấp nhất khác nhau nên bày phương tiện để phá bỏ tâm chấp nhất này.

Tùy căn cơ mà nói có nói không, nói có mà hết khổ thì có là pháp lành, nói không mà chấm dứt khổ đau thì không này là thiện pháp.

Phật như vị lương y tùy bệnh cho thuốc, khi lành bệnh thì thuốc kia vô dụng. Thành ra chuyện có không trong Phật giáo như mộng ảo, khi nào thấu suốt giáo pháp mới biết đích thực là có hay không. Trong  các kinh phương tiện thì có không đều bất liễu nghĩa, tùy thừa, tùy căn cơ mà lập bày chẳng phải Phật giáo bất nhất.

Chuyện có không cũng có thể hiểu theo cách sau: Ví như một đại dịch đang hoành hành nhân loại, tổ chức y tế thế giới kêu gọi mọi nước thành viên của mình tích cực chống dịch. Với người dân hay trường học phải thuộc lòng cách thức tự bảo vệ bằng các biện pháp cá nhân: Ra ngoài phải đeo khẩu trang, không đến vùng có dịch, tránh xa chỗ đông người, thường xuyên vệ sinh cá nhân, khi thân nhiệt lên cao phải đến ngay cơ sở y tế. Những bài học cụ thể này giống như kinh bất liễu nghĩa giáo Thanh Văn thừa, người nghe chỉ cần tuân thủ các quy định trên thì sẽ vô hại đối với đại dịch.

Nhưng với cơ quan y tế như các y bác sĩ thì lại học cách khác, khi địa phương có bệnh phải phun thuốc dập dịch, ứng cứu kịp thời, bệnh nhân phải được cách ly, điều trị theo phác đồ, nếu dịch bùng phát phải lập bệnh viện dã chiến. Những cách điều trị này như kinh phương đẳng giáo Bồ Tát thừa, thuộc lãnh vực chuyên môn điều trị bệnh khổ cho chúng sanh.

Nhưng những nhà khoa học của ngành y thì không như thế, họ thấy rất rõ con vi khuẩn truyền bệnh, biết loại vi khuẩn này xuất xứ từ đâu, chủng hiện nay tái cấu trúc bằng tổ hợp những chủng nào, tìm kiếm loại vắc xin có thể tiêu diệt chúng và đề ra biện pháp phòng trị tối ưu, hay cách thức tuyên truyền. Phần này giống như kinh phương quảng, ở đây không còn là giáo cho người học mà là những bậc thầy về lãnh vực này. Phòng chống dịch đối với họ là nghiên cứu các cách thức phòng chống và đề ra phương pháp phòng dịch cho nhân loại, thấy biết của họ rất rõ và thấu suốt nguồn cơn.

Đồng là phòng chống dịch nhưng ba trình độ khác nhau, chức năng khác nhau nên ba hiểu biết và cách thức thực hiện khác nhau. Chẳng may anh nông dân đọc được tài liệu chống dịch của hai trình độ kia thì thấy bất nhất trong vấn đề, lúc lại bảo thế này lúc lại bảo thế kia.

Thì cũng vậy trước đại dịch phiền não sanh tử, Thanh Văn, Bồ Tát, và Đại Bồ Tát có ba cách thức phòng chống khác nhau tùy địa vị và chức năng, không thể bảo con vi khuẩn có hay không, có với những nhà khoa học còn anh nông dân thì không, không thể bảo rằng có (con vi khuẩn) sao mình không thấy?

[[1]] Trích kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Tứ Thánh Đế -HT Thích Trí Tịnh dịch.

(còn nữa)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 1
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG