Luận Về Tầng Nghĩa Của Tứ Đế (Tiếp Theo)

 0
Luận Về Tầng Nghĩa Của Tứ Đế (Tiếp Theo)

Các bạn!...  Sáng nay, mình nhận được bài viết của HĐ có đề cập đến câu nói của các Bồ Tát: "Thế Tôn! Lạ lùng thay, chúng con lưu chuyển thọ vô lượng sanh tử, thường bị Vô Ngã làm mê lầm". Trong bài viết, HĐ cũng đã lý giải ý nghĩa câu nói này.

Để làm sáng tỏ các tầng nghĩa của câu nói trên, mình có vài câu hỏi, Rất mong, nhận được những kiến giải thú vị!

  • CÂU HỎI TCTT 2016/11 – Về “Tầng Nghĩa Của Tứ Đế” (tiếp theo)

1) Vì sao Tứ Pháp Ấn của Nhị Thừa (Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã) có đề cập đến Vô Ngã, coi Vô Ngã như một yêu cầu bắt buộc để thành tựu Đạo Quả của Thanh Văn. Còn Tam Pháp Ấn của Bồ Tát (Không, Vô Tướng, Vô Tác) lại không đề cập đến Vô Ngã?

2) Chữ Ngã người đời thường đề cập (cái tôi, cái ta, ngã mạn, v.v...), có giống ý nghĩa của chữ Ngã trong bốn đức Thường, Ngã, Lạc, Tịnh của Đại Niết Bàn hay không? Xin các bạn cho biết, ý nghĩa của hai chữ Ngã này khác nhau như thế nào?  (13-08-2016)       

GỢI Ý TCTT 2016/11 − Về “Tầng Nghĩa Của Tứ Đế” (tiếp theo)

Về hai chữ “Ngã” và “Vô Ngã”, xin gửi thêm tư liệu tham khảo đến các bạn, phần trích kinh Samyutta Nikāya và kinh Đại Niết Bàn có đề cập đến nghĩa lý của hai pháp này.   (14-08-2016)

  • Trích Kinh Saṃyutta Nikāya 22.59; (TK. Thích Minh Châu dịch).

"1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.

2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỉ-khâu: "Này các Tỉ-khâu".

− "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỉ-khâu ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

3) Sắc, này các Tỉ-khâu (Tỳ kheo), là vô ngã. Này các Tỉ-khâu, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

4) Và này các Tỉ-khâu, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

5) Thọ, này các Tỉ-khâu, là vô ngã. Này các Tỉ-khâu, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được thọ như sau: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"

 6) Và này các Tỉ-khâu, vì thọ là vô ngã. Do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"

7) Tưởng là vô ngã...

8) Các hành là vô ngã, này các Tỉ-khâu, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!"

9) Và này các Tỉ-khâu, vì các hành là vô ngã. Do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!"

10) Thức là vô ngã, này các Tỉ-khâu, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được thức như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"

11) Và này các Tỉ-khâu, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"

12) Này các Tỉ-khâu, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

− Là vô thường, bạch Thế Tôn!

Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

− Là khổ, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"

− Thưa không, bạch Thế Tôn.

13) Thọ là thường hay vô thường?

− Là vô thường, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

− Là khổ, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"

− Thưa không, bạch Thế Tôn.

14) Tưởng là thường hay vô thường?

− Là vô thường, bạch Thế Tôn.

  Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

− Là khổ, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"

− Thưa không, bạch Thế Tôn

15) Các hành là thường hay vô thường?

− Là vô thường, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

− Là khổ, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"

− Thưa không, bạch Thế Tôn.

16) Thức là thường hay vô thường?

− Là vô thường, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

− Là khổ, bạch Thế Tôn.

Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"

− Thưa không, bạch Thế Tôn.

17) Do vậy, này các Tỉ-khâu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."

18) Phàm thọ gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thọ cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."

19) Phàm tưởng gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả tưởng cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."

20) Phàm các hành gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả các hành cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."

21) Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi."

22) Thấy vậy, này các Tỉ-khâu, bậc Đa văn Thánh đệ tử yếm li đối với sắc, yếm li đối với thọ, yếm li đối với tưởng, yếm li đối với các hành, yếm li đối với thức. Do yếm li, vị ấy li tham. Do li tham, vị ấy giải thoát.

Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."

23) Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỉ-khâu hoan hỉ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỉ-khâu được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ"

  • Trích kinh ĐẠI NIẾT BÀN (HT Thích Trí Tịnh dịch)

"... Nầy Thiện-nam-tử! Đức Như-Lai cũng vậy. Vì độ tất cả chúng sanh nên dạy pháp vô ngã. Nhờ biết rõ pháp vô ngã, nên tâm dứt hẳn tâm chấp ngã, được nhập Niết- bàn. Vì trừ những vọng kiến trong đời nên thị hiện pháp xuất thế gian. Lại chỉ rõ quan niệm chấp ngã của người đời là hư vọng chẳng phải chơn thật, nên chỉ rõ pháp vô ngã để được thân thanh tịnh.

Như cô gái kia chữa bịnh cho con, lấy chất đắng thoa trên vú. Cũng vậy, Đức Như-Lai vì dạy tu pháp không nên nói các pháp đều không có ngã.

Như cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng vậy, đức Phật hôm nay nói Như-Lai tạng. Vì thế nên các Tỳ-kheo chớ sanh lòng kinh sợ… Như đứa trẻ kia nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng vậy, các Tỳ kheo nên tự phân biệt Như-Lai tạng, chẳng được, chẳng có.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Thiệt không có ngã. Vì lúc đứa trẻ mới sanh không hiểu biết. Nếu là có ngã thời ngày mới sanh lẽ ra liền có hiểu biết. Do nghĩa nầy nên định biết là không ngã.

Nếu quyết định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không hư hoại, sao lại có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, Chiên-đà-la, Súc sanh, v.v… sai biệt nhau. Hiện nay thấy các thứ nghiệp duyên chẳng đồng, các loài đều riêng khác. Nếu quyết định có ngã, thời tất cả chúng sanh lẽ ra không hơn kém.

Do những nghĩa trên đây nên định biết Phật tánh chẳng phải là pháp thường trụ… Nếu cho rằng Phật tánh quyết định là thường trụ, thời do duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu. Vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân khuể, tà kiến.

Nếu ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rượu lại say mê… Nếu ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi… Nếu ngã tánh là thường trụ, lẽ ra chẳng còn tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, dao gươm, kẻ ác, thú dữ... Nếu ngã là thường trụ, thời những việc đã từng nghe thấy lẽ ra chẳng quên. Nếu chẳng quên cớ gì lại nói: tôi đã từng thấy người nầy ở chỗ đó…

Nếu ngã là thường, thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu, tráng niên, lão thành, v.v... Lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu cùng nhớ đến việc đã qua… Nếu ngã là thường, thời nó ở chỗ nào? Nó ở trong nước mũi, nước miếng, hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư! … Nếu ngã là thường, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu mè không chỗ hở trống. Nếu như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị đứt!”

Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát: “Thiện-nam-tử! Ví như nhà vua có đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ nầy cùng người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da, Nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da. Y sĩ hỏi lực-sĩ: “Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?”

Lực sĩ kinh hãi đáp: “Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi ư? Nó rơi rớt ở đâu?” Nói xong lo rầu khóc lóc… Y sĩ an ủi: “Nay ông chẳng nên buồn khổ. Vì lúc ông đánh vật, hột châu lún vào ở ẩn dưới da, bóng nó hiện ra nơi ngoài. Lúc các ông vật đánh nhau, lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà chẳng hay biết”.

Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ. Nghĩ rằng: Nếu hột châu ở dưới da, máu mủ chảy tuôn cớ sao hột châu chẳng trồi lên. Còn nếu hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy. Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta chăng? Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt lực sĩ. Hột châu kim cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy, ngạc nhiên mừng rỡ.

Nầy Thiện-nam-tử! Tất cả chúng sanh cũng như vậy. Vì không được gần gũi bực thiện-tri-thức, dầu có Phật tánh mà đều không nhận thấy. Bị tham, sân, si che đậy. Vì thế nên đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, A-tu-la, Chiên-đà-la, Sát- đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà. Sanh vào trong các dòng đó, nhơn tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp duyên. Dầu được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt, vô trí. Thọ các quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si, che lấp bổn tâm, nên chẳng biết Phật tánh. Như lực sĩ kia hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã mất.

Cũng vậy, chúng sanh chẳng biết gần gũi thiện-tri-thức, chẳng biết bảo tạng Như- Lai, nên tu học vô ngã. Như hạng chẳng phải bực Thánh, dầu nói là có ngã, nhưng lại chẳng biết chơn tánh của ngã... Hàng đệ tử của ta cũng giống như vậy, vì chẳng biết gần gũi bực thiện-tri- thức, nên tu học vô ngã mà chẳng biết chỗ thật của vô ngã. Còn chẳng tự biết chơn tánh của vô ngã, huống lại có thể biết chơn tánh của ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Đức Như-Lai nói các chúng sanh đều có Phật tánh, ví như y sĩ chỉ hột châu kim cương cho lực sĩ, các chúng sanh nầy bị vô lượng phiền não che đậy chẳng biết Phật tánh. Nếu dứt hết phiền não, bây giờ mới đặng chứng biết rõ ràng. Như lực sĩ thấy hạt châu trong gương sáng… Tạng Như-Lai vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Nầy Thiện-nam-tử! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là “Dược vị”. Thuốc đó rất ngọt, ở dưới lùm bụi rậm, người không thấy được. Có người nghe mùi thuốc liền biết chỗ đó chắc có thuốc ấy. Thuở trước có vua Chuyển Luân ở nơi núi Tuyết nầy đặt những bộng cây để tiếp lấy thuốc. Lúc thuốc đó chín thời từ đất chảy ra chứa vào trong bọng cây, mùi vị thuốc ngọt ngon. Sau khi Vua đã băng, thời thuốc đó hoặc chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc lạt, tùy địa phương của thuốc sanh ra mùi vị đều khác nhau. Nhưng vị thật của thuốc đọng ở nơi núi như mặt trăng tròn. Người phàm ít phước dầu có đào xới chỉ luống khốn khổ mà không thể được. Lúc có Thánh-Vương ra đời, vì phước lớn của Vua, liền đặng vị thật của thuốc.

Nầy Thiện-nam-tử! Mùi vị tạng Như-lai cũng như vậy, bị các rừng bụi phiền não che đậy, chúng sanh mê mờ chẳng thấy được… “Dược vị” trên kia dụ cho Phật tánh. Bởi các phiền não nên sanh ra các thứ mùi vị sai khác như là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Trời, người, nam, nữ, Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, v.v...

Phật tánh hùng mãnh không thể hư hoại, vì thế nên không ai có thể sát hại được. Nếu sát hại được thời Phật tánh dứt, nhưng Phật tánh trọn không thể dứt, vì không bao giờ tánh có thể dứt được.

Như tánh của ngã tức là tạng Như-Lai không có gì phá hoại, đốt cháy được tánh ấy. Dầu không có thể phá hoại, nhưng chẳng thấy được. Nếu chứng đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác mới thấy được tánh. Do cớ đó nên không ai có thể sát hại được.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu không ai sát hại được, thời lẽ ra không có nghiệp bất thiện?”

Phật nói: "Nầy Ca-Diếp! Thiệt có sát sanh. Vì Phật tánh của chúng sanh ở trong thân ngũ ấm, nếu sát hại ngũ ấm, gọi là sát sanh, đã có sát sanh, thời đọa ác thú… Do nhơn duyên của nghiệp mà có Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ- đà, Chiên-đà- la, nam-nữ, v.v... hai mươi lăm cõi sai khác lưu chuyển trong dòng sinh tử... Người chẳng phải bực thánh vọng chấp tướng của ngã là lớn hay nhỏ, bằng hột cỏ, hoặc bằng hột gạo, hột đậu, nhẫn đến bằng ngón tay cái. Họ vọng sanh các thứ tưởng tượng như vậy. Tướng của vọng tưởng không có chơn thật… Tướng ngã xuất thế gian, gọi là Phật tánh. Thấy được ngã nầy, gọi là rất lành.

Nầy Thiện-nam-tử! Ví như có người giỏi biết kho báu dưới đất, liền lấy cuốc bén đào đất, thẳng đến đá bàn, cát, sỏi, có thể đào qua không khó, chỉ đến lớp kim cương thời không thể xoi thấu… Luận Về chất kim cương, tất cả dao búa không thể làm hư bể. Phật tánh[[1]] ẩn chứa trong chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà biện luận, Thiên-ma, Ba-tuần, cho đến các hàng Trời, người, không thể phá hoại được..."

* * * * *

Các bạn! ...  Mình có cuộc trao đổi ngắn với các HĐ, đề tài được đưa ra thảo luận, đó là ý nghĩa của chữ Ngã trong Phật đạo.

Trong Phật đạo, chữ Ngã được chỉ cho chân lý và những gì thường hằng, bất biến. Ngã là Như Lai Bảo Tạng, là Chơn Thiệt Nghĩa, là Quyết Định Nghĩa. Vì thế, trong kinh Đại Niết Bàn Phật dạy:

  • "Phật Tánh là Ngã, Ngã là Phật Tánh". Hay "Như Lai là Ngã"

Ngày xưa (và có thể là cả hôm nay), người ta nhầm lẫn rằng, Thượng Đế là Ngã (Thượng Đế bất biến), Phạm Thiên là Ngã. Thậm chí các nhà ngoại đạo (và cả người không Giác Ngộ) còn cho rằng, có thể tu luyện để ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) trở thành bất diệt… Chính vì điều này, để ngăn chặn những nhận thức sai lầm như thế, Tứ Pháp Ấn của Nhị Thừa có Pháp Ấn Vô Ngã. Vì rằng, Nhị Thừa chủ trương y nơi ngũ ấm mà tu tập có thể thấy được Đạo Quả! Như Lai tuyên “Tứ Pháp Ấn” để Nhị Thừa thấy được bản chất của ngũ ấm, chừng ấy tu hành mới không rơi vào lối tẻ của Ngoại Đạo!

Khi Thế Tôn ra đời, Ngài tuyên thuyết: "Hết thảy hữu vi pháp, đều vô thường biến hoại, không bền chắc". Và Phật cũng chứng minh rằng, Thượng Đế hay Phạm Thiên cũng chỉ là một hữu vi pháp. Vì thế, tất cả những thứ này đều Vô Ngã. Trong bốn đức Thường, Ngã, Lạc, Tịnh của Đại Niết Bàn, có hai đức, người tu hành khi Giác Ngộ có thể thấy được đó là LạcTịnh, viên mãn Diệt Đế sẽ thân chứng một phần hai đức này. Còn hai đức Thường và Ngã, chỉ đến bao giờ vị tu hành này viên mãn Đạo Đế, có nghĩa phải thấy Phật Tánh, thì hai nghĩa này mới xuất hiện. Trong quá trình làm công hạnh (Như Lai Địa), nghĩa Ngã sẽ viên mãn!

Tóm lại, chữ Ngã trong Phật đạo không có mối liên hệ nhiều đến chữ Ngã người đời thường nói. Cái ta, cái tôi, ngã mạn, v.v... mang ý nghĩa chữ Mạn nhiều hơn. Ví dụ: Ngã mạn, Tăng thượng mạn, Ty liệt mạn, mạn quá mạn. Đều không giống ý nghĩa của chữ Ngã trong Phật đạo.

Hy vọng bài viết ngắn này giúp các HĐ hiểu thêm điều gì đó về chữ Ngã, một từ ngữ có ý nghĩa và tính chất cao quý của Phật đạo. Mà chỉ có Thế Tôn của chúng ta mới xứng đáng được xưng tán bằng từ ngữ tốt đẹp này.                                    (15-08-2016)                          

                       "NgãNhư lai, Như LaiNgã"

---------------------------------------

[[1]] vì không phá hoại được nên là thường, là ngã!!! (Kinh Đại Niết Bàn, HT. Thích Trí Tịnh)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 1
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG