Kiến Giải Giác Trí Huyễn Trí Thật Trí Giác Ngộ Diệt Đế, Thành Tựu Hai Vô Ngã Là Gì?

 0
Kiến Giải Giác Trí Huyễn Trí Thật Trí Giác Ngộ Diệt Đế, Thành Tựu Hai Vô Ngã Là Gì?

Hỏi: Trong Phật Đạo, để chỉ cho thấy (kiến) và biết (tri), ta hay gặp những từ ngữ thuộc về tri như Giác Tri, Tưởng Tri, Tuệ Tri. Những từ ngữ thuộc về kiến như Kiến Bổn Tâm, Kiến Bổn Tánh, Kiến Phật Tánh. Có những từ ngữ gồm cả hai từ này như Phật Tri Kiến, Bồ Tát Tri Kiến. Xin hỏi, ba nhóm từ này giống hay khác nhau, nó có ý nghĩa gì đại diện cho sự tu tập?

Đáp: Về hai từ tri và kiến, ta có thể hiểu, đây là hai từ ngữ nhằm chỉ cho các cấp độ tu học trong Phật Đạo.

  • Chữ tri (biết), nhằm chỉ chung cho thấy biết của những người đang trên đường hướng về Giác và thuộc về Giác. Tri, là cái biết được hình thành do nhận thức, do học tập, do kinh nghiệm, do khả năng suy hiểu. Kết quả cao nhất của tri, là đưa người tu hành đến bờ mé (gần) của Diệt Đế.

Vì thế, ta thường hay bắt gặp những từ ngữ liên hệ đến tri trong Kinh Nikaya. Ví dụ như: Tưởng Tri, Thắng Tri, Tuệ Tri, Liễu Tri.

  • Chữ kiến (thấy), phần lớn được sử dụng trong các Kinh Đại Thừa. Chữ kiến (thấy) ở đây, được chỉ cho một “cái thấy” đặc biệt nào đó của những người tu tập đã Giác Ngộ Diệt Đế trở lên... Chữ kiến (thấy) trong Kinh Đại Thừa, không phải là sự kế thừa của kinh nghiệm, của học tập, của suy hiểu (để biết) như tri mà còn là một “khả năng đặc biệt của sự trực nhận tức thì”. Ví dụ như Thấy Bổn Tâm, Thấy Bổn Tánh, Thấy Tánh, Thấy Phật Tánh.
  • Chữ Tri Kiến (thấy biết) để chỉ chung cho hai khả năng thấy và biết xảy ra đồng thời, hoặc nhân thấy mà biết, hoặc nhân biết mà thấy của những vị tu hành sau khi rốt ráo chứng Diệt Đế hoặc bước vào Đạo Đế.

Giống như một người “với đôi mắt sáng” có ba trường hợp thấy biết xảy ra.

  • Thứ nhất, thấy biết rất rõ một đối tượng (cảnh giới) trước mắt. Chỉ cho người Giác Ngộ rốt ráo, thấy Phật Tánh (Pháp Thân, Phật Trí).
  • Thứ hai, thấy rõ một đối tượng (cảnh giới) từ xa, sau đó đến gần mới biết cụ thể. Chỉ cho người thấy Tánh Giác (hay Bổn Tâm, Tự Tánh).
  • Thứ ba, vị này biết rõ có một đối tượng (cảnh giới) nào đó, ở một vị trí nào đó, và người này đi về phía đối tượng để thật thấy đối tượng này. Giống như các A La Hán (đã chứng hóa Niết Bàn) được khai Phật Tri Kiến trong Kinh Pháp

Cả ba trường hợp này đều thuộc về những người sáng mắt, tức đã chứng hoặc thấy Diệt Đế, chấm dứt hai thứ vô minh là Nhuận Chi Vô Minh và Căn Bản Vô Minh. Và hoàn toàn không thuộc về những người tu tập còn trong giới hạn của biết (tri).

Hỏi: Như vậy có thể nói rằng, Tưởng Tri, Thắng Tri, Tuệ Tri, Liễu Tri là các tầng hiểu biết thuộc về quá trình Giác. Muốn chấm dứt cái biết của tri, để thật sự thấy rõ bằng cái thấy của kiến, người này phải thật sự Giác Ngộ Diệt Đế, thành tựu hai Vô Ngã?

Đáp: Đúng như vậy. Muốn chấm dứt cái biết của tri, người này phải thật sự Giác Ngộ.

Vì rằng, chỉ sau khi Giác Ngộ, vị này thấy rõ (thật kiến), bây giờ mọi suy luận để biết mới chấm dứt và cái biết nhân thấy được (tri kiến) mới là một thấy biết tường tận.

Ví dụ, khi thấy rõ cái đèn trước mặt, người này không cần suy luận (tuệ tri) hay hình dung ra (tưởng tri) để kết luận (liễu tri) cái đèn đó là như thế nào.

Từ Tưởng Tri đến Thắng Tri rồi Tuệ Tri và cuối cùng là Liễu Tri là quá trình hình thành thông qua nhận thức, học tập và kinh nghiệm để biết. Cái biết này do học tập, do hình dung, do suy luận, để có một kết luận như thật chứ nó chẳng phải là thật.

Vì thế, trong Kinh Nikaya hay có cụm từ “như thật tuệ tri”, hay “vị ấy liễu tri”. Điều này có nghĩa rằng, vị tu hành này, nhân học tập, nhân nghe nhiều đọc nhiều, nhân giỏi suy luận, nhân hình dung (tưởng trong thiền định) mà biết chứ chưa thật thấy biết.

Ngài A Nan khi chưa thật sự Giác Ngộ, không được tham dự kết tập kinh là một ví dụ minh họa cho những gì thuộc về tri mà không kiến (còn nhiều lỗi lầm đối trước chân lý vì chưa thấy rõ).

Trong Phật Đạo, để chỉ cho sự biết chưa thấy, người ta dùng hai từ “Kiến Giải”.

Tức là lấy ý kiến (hiểu biết, kinh nghiệm) cá nhân để giải thích một vấn đề, chứ không phải y cứ vào chân lý (cái thấy như thật) để giải thích vấn đề đó. Cho nên, có thể nói, những gì thuộc về Kiến Giải phần lớn mang nặng chiều rộng nhưng không sâu, tức là cái gì cũng biết, nhưng không cái nào biết thấu đáo. Vì thế, cái biết của Kiến Giải thường đưa đến tranh luận, không thống nhất.

Hỏi: Cái biết của Kiến Giải thuộc về tri. Cái biết của thực chứng thuộc về thấy. Hai cái biết này khác nhau cụ thể như thế nào?

Đáp: Kiến Giải dùng kiến thức, chiều rộng để chứng minh, rồi sau đó mới đưa đến kết luận. Thực chứng thấy sự việc (cảnh giới) trước”, sau đó (nếu cần) mới chứng minh để khẳng định rằng, cái thấy này là đúng.

- Trong tu tập, Kiến Giải hay hiểu biết của tri, chỉ là những hiểu biết gần giống với chân lý, chứ chưa phải là chân lý, vì không thật thấy nên những người tu tập còn trong phạm vi này, “tâm chưa thật sự dừng, pháp chưa thật sự dứt, ngã chưa thật sự tịch diệt”. Vì thế, không đưa đến nhiều lợi ích thiết thực cho mình, cho người. Cụ thể, họ chỉ có thể dùng sức rộng để truyền pháp”, chứ không thể ứng dụng chiều sâu để “truyền tâm”.

- Đôi khi, chính sức rộng làm hỏng tâm người do không biết cách hộ trì. Tức là tuyên thuyết những điều không thật sự lợi ích trong “một tâm cơ đặc biệt” vào một thời điểm đặc biệt.

Vì thế, xưa nay trong Phật Đạo, những người vừa mới Giác Ngộ, thường phải chịu sự giám sát đặc biệt của người khai thị. Người vừa Giác Ngộ không được gần gũi hoặc chung sống trong chúng, để tránh bị hư tâm do nghe được các Kiến Giải không hợp thời và bị các Kiến Giải này chi phối. Ta thường hay nói nôm na là uống lộn thuốc.

֎ Bậc thấy rõ (thực chứng) sẽ lần lượt thấy những điều cần thấy. Đến mức độ tu tập nào đó, vị này có năng lực thấy được tâm người, vì thế họ có khả năng “khai thị để truyền tâm” và biết cách phòng hộ cho người tu tập. Khi truyền pháp, những pháp họ thuyết ra, giống như thuốc chữa bệnh, khiến người dừng tâm cho đến tịch diệt vĩnh viễn tâm, pháp, ngã.

- Tóm lại, tri kiến là hai thứ hiểu biết có khoảng cách rất xa với nhau trong Phật Đạo. Và những vị tu hành chỉ thành tựu tri thì không thể biết được những hiểu biết của một bậc đã kiến thấy gì, hiểu gì. Ngược lại, vị thành tựu kiến thấy rất rõ hiểu biết của hàng tri. Và cứu cánh cuối cùng của Phật Đạo tức là “cái thấy của Trí Tuệ” chứ không phải sự suy luận của Tuệ Tri hay cao hơn là Liễu Tri để đưa đến một Tuệ Trí hay Giác Trí của Giác.

Hỏi: Như vậy có phải Giác Trí, Huyễn Trí Thật Trí là ba thứ Trí tuần tự, đại diện cho ba tầng bậc tu hành trong Phật Đạo?

Đáp:

  • Giác Trí thuộc về tri, một loại nhận thức thông qua sở tri để biết, tức lấy sở làm năng.
  • Huyễn Trí thuộc về năng tri, năng này không sở, và chưa viên.
  • Thật Trí tự thân không năng sở nhưng vì Từ Bi nên lấy sở (mê) làm năng (giác), nên gọi là Đại Giác.

Hỏi: Biểu hiện của ba thứ Trí này là như thế nào?

Đáp:

Thành tựu Giác Trí: Vị này cảm thấy thanh tịnh, trong lòng không hiện khởi Kiết Sử có sức tự tại về ngôn thuyết trong chừng mực của Kiến Giải, không thể hiện được chân lý.

Thành tựu Huyễn Trí: Biết được Bổn Tâm, Kiến được Bổn Tánh, có chút Trí Tuệ. Có thể từng bước khai thị giúp người cho đến viên mãn Diệt Đế, nhưng chưa thể dạy người Đạo Đế.

Thành Tựu Thật Trí: Giúp người thành tựu Đạo Đế và Thật Đế.

Hỏi: Có khi nào, người tu hành nhầm lẫn giữa tri kiến hay không?

Đáp: Đây là sự nhầm lẫn thường xuyên của những người thành tựu tri. Giống như người nhầm lẫn mặt trăng dưới nước là mặt trăng thật. Trừ người thấy rõ mặt trăng thật trên trời mới không có sự nhầm lẫn này.

Hỏi: Sự nhầm lẫn này, có hại gì trong việc tu tập?

Đáp: Như trên đã trình bày, người chỉ thành tựu tri, lấy sở làm năng, nên không thể Giác Ngộ chân thật, do lỗi tưởng đủ, biết khắp. Bao giờ vị này không còn nương tựa nơi sở pháp để sinh tâm, sinh ngã. Biết rõ sở kiến này chỉ là thứ “trăng trong nước”, chấp nhận từ bỏ sở kiến, ngước mặt nhìn lên trời, để một phen thấy được “mặt trăng thật” không giống như “mặt trăng của Kiến Giải”. Một lần nữa, đoạn kinh sau chỉ ra tất cả:

“Pháp Thân (Phật Tánh, Phật Trí) chẳng thể dùng kiến văn giác tri để cầu... Vì Pháp Thân chẳng thuộc về sở kiến của nhục nhãn, vì Pháp Thân là vô sắc... Nó cũng chẳng phải sở kiến của thiên nhãn, vì vô vọng... Chẳng phải sở kiến của huệ nhãn, vì lìa tướng... Chẳng phải sở kiến của pháp nhãn, vì lìa chư hành... Chẳng phải sở kiến của Phật nhãn, vì lìa chư thức... Nếu chẳng dùng những cái thấy kể trên để tìm cầu, thì người tu hành (may ra) có thể cảm nhận Pháp Thân qua Phật Tri Kiến (tức là những gì mà văn tự, ngữ ngôn có thể hiển bày)...”.

Hỏi: Như vậy, cái biết của Giác (thuộc về tri) có quan trọng trong Phật Đạo hay không?

Đáp: Quan trọng ở giai đoạn chưa ngộ (chưa thấy Bổn Tâm, Bổn Tánh). Vì sau khi thấy được Bổn Tâm, thấy được Bổn Tánh, vị này sẽ “lấy cái thấy để biết” chứ không còn suy luận để biết.

Vì thế mới nói, người thành tựu Diệt Đế, vĩnh viễn chấm dứt Giác Quán”.

Người chứng Diệt đế viên mãn thay Giác bằng Chánh Kiến, tức một cái thấy chân thật, thay Quán bằng Chánh Tư Duy có nghĩa như cái thật thấy kia mà sinh hiểu biết.

Điều này, vượt quá sức suy hiểu của Giác Tri.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG