Điều Phục Năm Món Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức Để Thành Tựu Diệt Đế Trong Phật Đạo

Các bạn! ... Buổi sinh hoạt vừa rồi, chúng ta đã trao đổi với nhau bốn khái niệm cơ bản trong Phật đạo đó là Tri, Giác, Pháp và Tâm.
Trong kỳ này, chúng ta tiếp tục khảo sát năm thành tố chính làm nên "thân, tâm và trí" của một hữu tình, đó là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Cách giải quyết năm thành tố này giữa Nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) và Bồ Tát thừa sai khác như thế nào để có thể thành tựu Diệt Đế? Bài viết này, mình chỉ tóm tắt quá trình chuyển hoá năm món nêu trên như một đề cương. Sinh hoạt thực tế, chúng ta sẽ triển khai cụ thể! Hai bài kinh Đại Thí Dụ Lõi Cây và Bát Nhã Tâm Kinh, có thể coi là tiêu biểu cho thấy sự khác biệt về phương pháp điều phục sắc thọ tưởng hành thức của Nhị thừa và Bồ Tát thừa.
I. NHỊ THỪA (gồm Thanh Văn và Duyên Giác): Phần lớn là những người xuất gia, tu sĩ chuyên nghiệp. Họ quyết chí tìm con đường giải thoát bằng cách xa rời thế tục. Và, họ lấy việc tu tập giới, định, tuệ vô lậu làm cơ sở dấn thân, trong đó dựa vào những nền tảng cơ bản của một Sa Môn để chứng A La Hán quả, nền tảng đó là:
− Cát ái ly gia: Từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
− Độc cư thiền định: Từ bỏ quyến thuộc, sống không quyến thuộc.
− Không có tâm sở hữu: Từ bỏ tài sản, sống không tài sản. Chỉ mang theo bên mình bát khí (8 món), trong đó ba (3) Y và một (1) Bát, như con chim với đôi cánh, không có trú xứ nhất định.
− Ăn ngày một bữa, chỉ khất thực để nuôi thân: Không tích trữ hạt giống, tài vật, không gieo trồng, không nấu nướng.
− Nếu có thuyết pháp hay quản lý tài vật thuộc của thường trụ: Cũng chỉ là thực hiện nhiệm vụ Tăng sai, không có ý niệm là chủ sở hữu.
− Sống không rời thiền định: Dùng thiền định để yểm ly ba cõi, chế ngự sự cột trói của ngũ ấm. Cho đến khi “ba cõi” không còn hiện hữu trong tâm và “ngũ ấm” mất năng lực cột trói, gọi là thành tựu đạo xuất thế hay giải thoát (A La Hán).
• • Trên đây chỉ là những liệt kê cơ bản coi như điều kiện cần và đủ để thành tựu đạo quả A La Hán (giải thoát). Các bạn có thể tìm hiểu thêm trong kinh tạng Nikaya!
• • Tuy A La Hán là quả vị nhỏ trong hệ thống tu tập của Phật Đạo, chỉ đủ để tự cứu! Nhưng, để thành tựu quả vị này, lại đòi hỏi những điều kiện vô cùng nghiêm ngặt của một Sa Môn. Thiếu một trong những điều kiện tiêu biểu trên, việc thành tựu đạo quả A La Hán là không thể! Đây cũng là lý do vì sao, A La Hán quả được liệt vào Thánh quả và được coi là bậc Ứng Cúng!
Kinh Đại Niết Bàn Phật dạy: “Sau khi A La Hán nhập Niết Bàn, dựng tháp một tầng để thờ; Độc Giác Bích Chi dựng tháp 11 tầng để thờ, Phật là 13 tầng” trong khi đó Bồ Tát “dày công hãn mã” với chúng sanh, thì không nghe nói có tầng nào!.. Đố các bạn biết lý do vì sao?
Nếu vị A La Hán đó không được bậc Đạo Sư khai thị Ngộ Nhập Phật Tri Kiến, không phát Vô Thượng Bồ Đề Tâm, Phật gọi Vị này là “Độn La Hán” là “Hạt giống thối” là “Gã cùng tử”. Trong kinh Lăng Già, Phật cũng nói rằng: “Đạo quả của các ông có được, ngoại đạo cũng có được”! Đây cũng là lý do vì sao Kinh Diệu Pháp Liên Hoa xuất hiện trong đời!
II. BỒ TÁT: Phần lớn là những người tại gia, gồm vua, quan, cư sĩ... Họ chung sống trong xã hội, có người đang làm công việc trị quốc, có người làm công việc an dân, có kẻ là học sĩ, trí thức, công nhân, thợ thuyền, binh sĩ... Họ sống giữa đời thường, vừa thực hiện bổn phận của một công dân, vừa làm một Phật tử... Vì thế, giác ngộ đối với họ là cơ sở quan trọng để làm tiền đề thành tựu đạo nghiệp (không lìa đời, không ẩn tu... mà vẫn thành toàn đạo quả). Chỉ có giác ngộ, tức vừa cộng trú với đời, vừa hoát nhiên nhận ra thế nào là đạo lộ của Pháp Bổn Trụ [[1]]... Và, chỉ có giác ngộ như thế, Bồ Tát mới có được "Trí Tuệ Siêu Thắng", từ trí tuệ này, họ soi chiếu vào năm uẩn để thấy "bản chất tự không"của năm món đó!
Do vậy, con đường tu tập giữa Nhị thừa và Bồ Tát thừa hoàn toàn không giống nhau. Sở dĩ có sự sai khác này là do: Đời sống, chí nguyện, cơ trí không giống nhau.
III. ĐỘC ĐẠO TIẾN VỀ VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ: Tuy phương pháp và hoàn cảnh tu tập có khác nhau, nhưng sau khi chứng Diệt Đế, ba thừa đều gặp nhau ở Nhất Thừa, đây được coi là nét đặc trưng của Phật đạo và là độc đạo để tiến về Vô Thượng Bồ Đề!
- Đối Với Nhị Thừa: Do tính chất trói buộc của sắc thọ tưởng hành thức, và yêu cầu thoát ra khỏi hệ luỵ của năm món này, nên năm món ấy có tên là "Ngũ Ấm"!
- Đối Với Bồ Tát Thừa: Do tính chất tích chứa phiền não và yêu cầu thoát khỏi phiền não, nên năm món này có tên là "Ngũ Uẩn"!
III.1. Nhị thừa_Tu tập để thành tựu “Giải thoát bất động”:
Để có thể thành tựu mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh, thừa này phải thoát ly triệt để trói buộc của Ngũ Ấm bằng con đường "cát ái ly gia…". Theo kinh Đại Thí Dụ Lõi Cây, Nhị thừa phải vượt qua năm giai đoạn cơ bản đối với một “tu sĩ chuyên nghiệp” đó là: "Xuất gia, thành tựu giới đức, thành tựu thiền định, thành tựu tri kiến, thành tựu giải thoát bất động". Thành tựu rốt ráo năm điều này, như người đi tìm lõi cây, lần lượt chặt bỏ cành nhánh (sắc ấm), lột bỏ vỏ ngoài (thọ ấm), lột bỏ vỏ trong (tưởng ấm), bỏ giác cây (hành ấm) và cuối cùng tìm thấy lõi cây (Giác ngộ thức ấm chính là Trí Tuệ Vô Lậu Vô Sanh Y).
III.1.1. Xuất gia và thành tựu giới đức:
Mục tiêu của hai việc làm này, nhằm đưa sắc ấm và thọ ấm từ nơi hiểm nguy của thế gian, xa rời thế tục, đến nơi chốn an ổn của tịnh xứ (trú xứ bất cộng thế gian). Tránh xa những cảm thọ bất hạnh. (Sống không gia đình, ba y một bát, như con chim với đôi cánh, khất thực để nuôi thân, sắc ấm và thọ ấm không hệ phược).
Kinh Ganaka Moggallana (Trung bộ, 107) đưa ra đạo lộ tuần tự tu tập như sau:
a) Tỳ kheo xuất gia, giữ gìn giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, có oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới.
b) Tỳ kheo hộ trì các căn, khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng riêng, không nắm giữ tướng chung, những nguyên nhân gì làm cho tham ái, ưu bi khởi lên phải chế ngự đoạn trừ nguyên nhân ấy, thinh, hương... cũng vậy.
c) Tỳ kheo tiết độ trong ăn uống, chân chánh quan sát ăn không để vui đùa, đam mê, trang sức cho thân mà chỉ để khỏi tổn hại thân, để giữ gìn phạm hạnh.
III.1.2. Thành tựu giới đức và tu tập thiền định.
Mục tiêu của việc làm này, nhằm giúp Nhị thừa chế ngự thọ ấm và tưởng ấm. Chấm dứt khổ lạc thọ và điên đảo tưởng của ba cõi. Kinh Ganaka Moggallana đưa ra đạo lộ tuần tự tu tập sau:
a) Tỳ kheo được huấn luyện chú tâm cảnh giác ban ngày cũng như ban đêm, trong các hành động gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp.
b) Tỳ kheo được huấn luyện chánh niệm tỉnh giác trong mọi động tác của thân thể khi đi đứng nằm ngồi… đều ý thức việc mình đang làm.
c) Tỳ kheo được huấn luyện ngồi thiền ở một nơi thanh vắng, kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, gột sạch tâm trí khỏi 5 triền cái. Chứng Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền. Bốn thiền này, giúp sắc ấm và thọ ấm vượt qua khổ lạc thọ (còn gọi là bất khổ bất lạc thọ).
d) Thành tựu Tứ Không Định cho đến Diệt Thọ Tưởng Định. Giúp tưởng ấm ra khỏi điên đảo tưởng của ba cõi, vào Vô Tưởng Thiên.
III.1.3. Thành tựu tri kiến:
Sau khi hết điên đảo tưởng về ba cõi khổ. Từ Vô Tưởng Thiên (hoặc Sắc Cứu Cánh Thiên của Tứ Thiền), để chấm dứt sự luân chuyển của hành ấm (từ thời giải thoát sang phi thời giải thoát), vị này phải có được tri kiến thù thắng. Với tri kiến thù thắng vô lậu, tự thân vị này xác chứng rằng: "Ngũ ấm chẳng phải là của ta, chẳng phải là ngã của ta và chẳng phải là tự ngã của ta." Từ đó hành ấm tịch diệt!
a) Đại Kinh Xóm Ngựa” [[2]]. Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa đến diệt khổ; đây là lậu hoặc, đây là nguyên nhân của lậu hoặc, đây là sự đoạn trừ lậu hoặc, đây là con đường đưa đến đoạn trừ lậu hoặc. Vị ấy thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu"
b) Ðại kinh bốn mươi pháp, [[3]] Ðức Phật dạy: "Có 2 loại chánh kiến: Chánh kiến hữu lậu có sanh y và chánh kiến vô lậu, siêu thế không có sanh y. Chánh kiến vô lậu thuộc về trí tuệ, đạo chi của một vị tu tập thành thục trong thánh đạo".
III.1.4. “Giải Thoát Bất Động”, mục tiêu cuối cùng của Phạm Hạnh:
Hành ấm đã diệt, vị tu hành này hoát nhiên nhận ra vì lầm chấp nên bị ngũ ấm trói buộc. Ngũ ấm trói buộc nên hành ấm và thức ấm động lay gọi là mê. Với liễu tri như vậy, vị ấy dừng tâm, hành ấm và thức ấm đồng tịch diệt. Giống như con kênh dẫn nước, hai đầu bằng nhau, dòng nước ngưng chảy và trong suốt (không động lay, sáng suốt). Vị ấy hoàn thành mục tiêu tự độ, gọi là "Thành tựu mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh đối với người xuất gia"!
III.2. Bồ Tát_Tu tập để thành tựu “Diệt đế”:
Sau khi đã giác ngộ, Bồ Tát với trí tuệ siêu việt (kinh gọi là Bát Nhã Trí). Vị này dùng trí tuệ như một ngọn đèn cực sáng, chiếu thẳng vào ngũ uẩn, để thấy rõ thiệt tướng "không uẩn" của “sắc, thọ, tưởng, hành, thức”. Kinh dạy: "Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa... chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách."
Có nghĩa rằng, Bồ Tát với “trí tuệ siêu việt” sau khi đã “giác ngộ”, soi chiếu vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức để thấy bản chất của năm món này có giá trị bằng không (tự không, của hư không). Vì thế, mọi thứ khổ ách cũng sẽ có giá trị tự không (của hư không)!
III.2.1. Soi chiếu lần thứ nhất: "Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị."
− “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” ● "Lặng lẽ quan sát thân này" để nhận rõ ra rằng, thân này cùng với hư không ngoài kia không khác nhau Tức bản chất của thân cũng như hư không, cả hai đều chẳng phải pháp (đối tượng của ý thức), vô giá trị (vô uẩn).
− “... Sắc tức thị không, không tức thị sắc” ● "Lặng lẽ quan sát" để thấy rằng, thân này và hư không ngoài kia đồng một tính chất, đó là không tánh (vô uẩn tánh).
− “Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị” ● "Lặng lẽ quan sát" để thấy rằng, bốn món còn lại đều như vậy (không uẩn, xứ, giới). • Sắc cùng thọ tức thị không: Lạc thọ và khổ thọ đồng không ngã, không ngã sở (vô ngã thủ uẩn). • Tưởng tức thị không: Tưởng chẳng có xứ (vô xứ thủ uẩn). • Hành và thức tức thị không: Hành và thức chẳng có chỗ để đến (vô giới thủ uẩn).
III.2.2. Soi chiếu lần thứ hai: "Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc."
− "Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.” ⁕ "Lặng lẽ quan sát" để thấy rằng: Sắc, thọ, thức, chẳng phải pháp, nên các món này (pháp) tự nó vô lậu, vì vô lậu, nên tự giải thoát, thanh tịnh bất động, hết thảy đều không tướng (pháp). Vì thế, chẳng nên khởi nghĩ nó có sanh hay diệt, có sạch hay dơ. Chiếu đến đây, “chứng Vô Sanh”.
− "Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.”. ⁕ "Lặng lẽ quan sát" để thấy rằng: Từ thân tâm đến thế giới chỉ là hư không. Không thân, không tâm, không trí, không giới. Tất cả chỉ do một niệm mê mà có "sum la vạn tượng". Giống như người mắt nhặm thấy có hoa đốm, rồi cho rằng trong hư không thiệt có hoa đốm.
Dứt mê vạn pháp tự dứt, đạo diệt khổ cũng tự dứt. Chiếu đến đây, “chứng Vô Sanh Pháp”, thành tựu “Tương tợ Bát Nhã”. Xong phần tự độ!
HAI BÀI KINH TIÊU BIỂU
(01) BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
"Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha".
* * * * *
(02) ĐẠI KINH THÍ DỤ LÕI CÂY (Mahasaropama-sutta).
(Trung Bộ Kinh “Majjhima Nikaya”, Kinh 29)
"Như vầy tôi nghe,
Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha (Vương Xá), núi Gijjhakuta (Linh Thứu), khi Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) từ bỏ (Chúng Tăng) ra đi không bao lâu. Ở đây, nhân việc Devadatta, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo và dạy như sau:
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử do lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt được". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, mãn nguyện. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy. Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền". Vị ấy, vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây.
Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".
Cũng vậy, ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền". Vị ấy vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy cành lá của phạm hạnh, vì do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu, giới đức này, vị ấy khen mình chê người: "Ta là người trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp". Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây.
Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... (như trên). Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy vỏ ngoài của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt được". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Do thành tựu giới đức này, vị ấy không khen mình, chê người. Do thành tựu giới đức này, vị ấy không trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định. Do thành tựu thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu thiền định này, vị ấy khen mình chê người: "Ta có thiền định nhất tâm. Các Tỷ-kheo khác không có thiền định, tâm bị phân tán". Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình (như trên). Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
- Chư Tỷ-kheo, như vậy vị ấy được gọi là Tỷ-kheo đã nắm giữ vỏ trong của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).
Lại nữa, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu Thiền định này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến, vị ấy vì tri kiến này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy do tri kiến này, khen mình, chê người. "Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống, không thấy và không biết". Vị ấy, do tri kiến này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật vị ấy bị đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây và mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người ấy không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị này, vì tri kiến này nên mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị này bị đau khổ.
- Chư Tỷ-kheo, như vậy vị này gọi là đã nắm giữ giác cây của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây)".
Lại nữa, ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định, vị ấy do thành tựu Thiền định này, hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Do thành tựu tri kiến này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu phi thời gian giải thoát. Này các Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời gian giải thoát ấy.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết đó là lõi cây. Một người có mắt thấy như vậy, có thể nói: "Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thực hiện".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây một Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong khổ đau, bị chi phối bởi khổ đau. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật. Vị ấy thành tựu giới đức.
Vị ấy do thành tựu giới đức này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy, không do thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu thiền định nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật.
Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy vì thành tựu tri kiến này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật.
- Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu được phi thời gian giải thoát. Này chư Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời gian giải thoát ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến.
- Và này các Tỷ-kheo, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy" (Kinh số 29. Trung Bộ, TK Thích Minh Châu, Pali dịch
------------------------------
[[1]] Pháp bổn trụ: Nhận thức như pháp ở mức độ cao nhất.
[[2]] Trích Đại Kinh Xóm Ngựa: Kinh Tr. Bộ 39; TK. Thích Minh Châu.
[[3]] Trích Đại Kinh bốn mươi: Kinh Tr. Bộ 117; TK. Thích Minh Châu.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






