Ba Mươi Bảy Phẩm – Bát Chánh Đạo

Người tu hành không ai không biết bát chánh đạo, những phẩm trước của 37 phẩm có thể không thuộc hoặc không biết nhưng bát chánh đạo hầu như tám điều được biết đến nhiều nhất.
Tám điều của bát chánh đạo gồm: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
- Có thể đặt vấn đề nếu định và xả giác chi là rốt ráo giải thoát thì bát chánh đạo xuất hiện để làm gì, có phải thừa hay không?
- Lại còn một câu hỏi có lẽ cũng cần phải đặt ra đó là định và xả giác chi thành tựu, tức rốt ráo giải thoát. Bát chánh đạo gọi là địa vị tu đạo. Đã giải thoát thì còn cái gì thiếu để tu?
Hai câu hỏi trên nếu thỏa mãn sẽ có cái nhìn tốt hơn về bát chánh đạo, và bát chánh đạo ra đời chính là giải quyết rốt ráo hai thắc mắc trên.
Muốn hiểu bát chánh đạo trước hết phải hiểu Phật giáo quan niệm như thế nào là chánh. Khi chưa biết rõ thế nào là chánh thì chữ ‘chánh’ trong bát chánh đạo sẽ ‘mất hết ý nghĩa của một thánh pháp’, cho dù thánh pháp mà không có ý nghĩa thánh thì thánh pháp này trở thành thế pháp, chỉ còn là văn tự thế tục và bát chánh đạo trở thành môn luận lý giáo khoa ở đời.
• Bát chánh đạo là sự kế thừa nhất định của 37 phẩm.
Trình tự này phải được nhất quán, có nghĩa tính thống nhất rất cao được hình thành trong khái niệm “cái này có nên cái kia có” và ngược lại. Vì vậy sau khi thành tựu địa vị tư lương nhất định, địa vị kiến đạo sẽ đến, viên mãn địa vị kiến đạo điều tất yếu là địa vị tu đạo xuất hiện.
Hiển nhiên là không thể có chuyện chưa thành tựu điều trước mà điều sau xuất hiện, cũng không có chuyện thành tựu điều trước mà không có điều sau trừ người giữa đường vì duyên cớ nào đó thối chuyển.
Trong 37 phẩm chỉ có thể thối chuyển khi còn ở địa vị tư lương (địa vị phàm phu), giống như người nghèo kiếm tiền, khi địa vị này thành tựu bước sang địa vị kiến đạo thì đồng địa vị một Tu Đà Hoàn. Như Phật dạy cho dù một Tu Đà Hoàn giải đãi thì trong bảy đời nhất định sẽ chứng giải thoát, giống như con kén đã hóa thân thành bướm thì không thể nào con bướm này còn cơ hội để trở về thân kén ngày xưa.
Trình tự vượt qua 37 phẩm giống như người ta leo lên một cái thang gồm 37 bậc, không có chuyện chưa vượt qua bậc trước mà có thể đến bậc sau hay khác hơn cuộc hành trình gồm 37 chặng, muốn đến đích phải thứ tự vượt từng chặng một.
• 37 phẩm là tiến trình chuyển hóa từ địa vị ‘phàm phu’ lên địa vị ‘thánh’ trong khái niệm Phật giáo.
Nói ‘trong khái niệm Phật giáo’ là vì chữ thánh ở đây chỉ có giá trị đối với Phật đạo, có nghĩa những ai tin thuận trong dòng giáo pháp này, còn những ai không tin, ở ngoài hoặc chưa tùy thuận thì có thể hiểu khác.
Phật giáo không áp đặt mọi người phải hiểu như mình, tôn giáo này không nhất thiết phải hiểu giống tôn giáo kia. Nhưng đã ở trong tôn giáo này thì không thể hiểu theo cách hiểu riêng của mình hoặc tôn giáo khác, vì mỗi tôn giáo hay luận lý ở đời đều có chỉ thú và cứu cánh khác nhau.
Nếu kiến giải không phù hợp cứu cánh thì kiến giải này không tác dụng thực tế tu hành. Tất nhiên không ai cấm cản quyền tự do, nhưng nếu hiểu theo cách hiểu riêng tư thì chỉ là kẻ “nghe nói mà biết,” hay “cưỡi ngựa xem hoa”, và sẽ không có một sự thành tựu hay ‘thấy biết’ chắc thật.
Do đó thống nhất các khái niệm như pháp là một điều cực kỳ quan trọng trong giáo pháp. Đây là kim chỉ nam, vì rằng chỉ khi nào hiểu biết đúng thì thực hành mới đúng. Trong Phật pháp luôn luôn lặp lại hai chữ tri kiến, có nghĩa thấy biết, không thấy nói đến nghe biết, cho nên thấy và biết sẽ là cách xác chứng đưa đến chánh tín.
- Cũng cần nói thêm chữ ‘thánh’ trong Phật đạo là nói đến ‘thánh tâm’, tức vị này tự tại trước các pháp, đầy đủ từ bi hỷ xả, hiểu biết tường tận đâu là thánh pháp đâu là thế pháp.
Vì thế một phàm phu khi đạt được địa vị thánh trong Phật đạo không có nghĩa người này mọc thêm cánh tay thứ ba hay cái miệng thứ hai, cũng không phải bay lên trời hay độn thổ mới gọi là thánh, vì thân này là tướng cộng nghiệp. Tu hành chỉ giải quyết biệt nghiệp, chấm dứt ngu muội tham sân si để hết khổ đau rồi giúp người thành tựu như mình gọi là Bồ Tát. Thành tựu một hoặc hai điều này Phật giáo gọi đó là thánh.
Giống như các pháp khác của Phật pháp, khi Phật tuyên thuyết một pháp tùy theo tâm lượng từng loài mà thấy biết sai khác, chữ chánh trong bát chánh đạo cũng như vậy, thế gian hiểu bát chánh đạo theo thế pháp, đó là thứ luận lý căn cứ vào đạo đức, phong tục, văn minh, thiện ác, luật lệ, mục đích. Cái nào thuận theo mục đích thì gọi là chánh, cái nào không thuận gọi là tà, tà không có nghĩa là xấu mà chỉ không thẳng một đường đến mục đích, cho nên nói nó là tà, cách hiểu trong thế gian không thể ứng dụng để vào thánh đạo.
Như phần trước đã đề cập, bát chánh đạo là thánh pháp thuộc địa vị tu đạo. Bát chánh đạo chỉ có được khi nào viên mãn diệt đế, có nghĩa chứng giải thoát rồi mới biết bát chánh đạo là gì.
Vì thế kinh hay nói: Thấy khổ, biết tập, chứng diệt, tu đạo. Nếu chưa chứng diệt thì không có đạo để mà tu, cho nên mới nói bát chánh đạo là môi trường sống của diệt đế, giống như nước là môi trường sống của cá. Khi nào là cá thì mới biết rõ môi trường sống của mình như thế nào, còn không phải là cá thì môi trường sống đích thực sẽ khó mô tả. Đây là thứ nóng lạnh đặc trưng của người uống nước mà trong tu hành hay nói theo cách người xưa: “Nóng lạnh tự biết.” Tuy nói nóng lạnh tự biết nhưng nóng lạnh có những đặc tính riêng của nó và đã là đặc tính thì phải có nguyên lý làm nên đặc tính này. Ở đây chỉ nói đặc tính hay tính chất mà không nói bản chất, vì theo Phật pháp các pháp bản chất của nó thanh tịnh, chỉ do duyên mà hình thành đặc tính hay tính chất.
Ví dụ bản chất nước không tánh (ngoại tánh phi tánh), gặp duyên nóng thì có tính chất nóng, gặp duyên lạnh thì lạnh, gặp nhiệt độ âm thì cứng, gặp duyên nhiệt độ cao thì bốc hơi. Các duyên này thế gian gọi là nguyên lý.
Cho nên không thể trình bày nguyên lý làm nóng mà mô tả sự lạnh, vì thế thấy bốc khói biết nóng, thấy mát biết lạnh. Nói là nóng mà khi xúc chạm thấy mát hoặc ngược lại thì nóng lạnh này phải coi lại. Nó là thực tế của người đã từng uống nước nên mới nói nóng lạnh tự biết. Không thể chỉ nói suông theo lời người xưa trong khi đó thực tế mình chưa hề thấm được cảm giác nóng lạnh của người đã uống nước, vì điều này là cách kiểm chứng chánh lý.
- Như vậy có thể hiểu chữ chánh trong bát chánh đạo là những thấy biết, hành động, nói năng nào tùy thuận giải thoát, hàm chứa ý nghĩa giải thoát, tăng trưởng đạo giải thoát, có thánh vị Niết Bàn, hàm chứa thanh tịnh Niết Bàn, tăng ích thanh tịnh Niết Bàn, hợp với giới-định-huệ vô lậu mới gọi là chánh. Những thấy biết, hành động, nói năng nào không có những tính chất này đều thuộc về tà.
- Phật giáo là đạo nhất quán mà Phật thường chỉ ra đó là thượng trung hạ đều thiện, có nghĩa nhất nhất việc làm trước, giữa, hay sau đều giải thoát và thanh tịnh. Vì lẽ này trong phần luận bát chánh đạo chỉ đề cập đến tính chất được gọi là chánh đạo, nhằm mô tả một vài khái niệm đại cương của ý nghĩa chánh không nhằm đào sâu bản chất môi trường là gì. Khái niệm này giúp biết được thế nào là chánh, hầu tránh những gì thuộc về ngã rẽ.
- Vì sao bát chánh đạo được ví như môi trường sống của diệt đế? Khi thân chứng diệt đế, vị này vào thánh quả không còn là một phàm phu. Đời sống bây giờ đòi hỏi có những sinh hoạt mới, vì vậy cần một môi trường thích hợp là điều cần thiết. Nếu như trong thế pháp mọi hoạt động đời sống tương ưng thế gian thì khi thoát ra khỏi đời sống này, đời sống cũ không còn phù hợp.
Những gì ngày xưa là lạc, bây giờ trở thành khổ. Giống như người cùi và hố than hừng, thói quen thường nhật thay đổi, kéo theo những điều chỉnh cần thiết để phù hợp với thánh đạo, giống như con cá từ nước ngọt muốn vào biển lớn phải thay đổi mọi sinh hoạt để tồn tại. Không có sự điều chỉnh tự thân hợp thời và không thích nghi với sự chuyển hóa môi trường đang tiệm tiến xảy ra thì sự tồn tại không dài lâu.
- Ở đây từ địa vị phàm phu lên thánh cũng như vậy. Trong quá trình của 37 phẩm chính là sự biến đổi môi trường dần dần và mỗi thành tựu trong một địa vị chính là sự hóa thân của thích nghi. Vì thế sẽ không có sự đột ngột nào diễn ra đối với người đã thân chứng diệt đế vào đạo đế.
- Nếu như trong thế pháp lấy ngũ dục và vọng tưởng làm chất liệu nuôi dưỡng thì trong thánh đạo giới-định-huệ vô lậu là chất liệu dưỡng nuôi thánh quả. Môi trường của họ cấu tạo bằng giới-định-huệ vô lậu, đồng thời đây là thức ăn nuôi lớn thánh pháp. Chính điều này bát chánh đạo ra đời, tám món này thực chất là giới-định-huệ vô lậu. Nó vừa là điều kiện tồn tại vừa là điều kiện phát triển nên bát chánh đạo hay khác hơn 37 phẩm có các tên gọi khác nhau.
Sự khác nhau về tên gọi thể hiện rõ nhất trong bát chánh đạo, khi nào tám món nằm trong điều kiện tồn tại và nuôi lớn gọi là ‘pháp trợ đạo’. Pháp này giúp cho thánh quả tồn tại và viên mãn. Giống như biển và thức ăn trong biển là điều kiện tồn tại và nuôi lớn của loài cá nước mặn.
Khi nào tám món này trở thành điều kiện phát triển trí tuệ thì có tên ‘trợ Bồ Đề’. Giống như con cá nước mặn đã khôn lớn bây giờ đại dương là nơi chốn để con cá này lớn khôn và học cách vẫy vùng. Do vậy bát chánh đạo có thể coi như biển đại giác, đây là môi trường nuôi lớn thánh quả đồng thời là môi trường tốt để bậc thánh lớn khôn và viên mãn trí tuệ vô lậu.
Chữ tu đạo của bát chánh đạo nằm trong nghĩa nêu trên, tu ở đây là tu dưỡng trong một môi trường đặc biệt phù hợp với bản chất giải thoát.
- Vì thế chữ ‘tu’ trong bát chánh đạo còn có tên ‘bát thánh đạo’, không có ý nghĩa là ‘sửa’ như thế gian thường hiểu. Tiêu biểu cho điều này, một Thanh Văn khi thân chứng thánh quả tuyên bố bốn thành tựu: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, thân này là thân rốt sau, không còn trở lại đời sống cũ nữa.”
Tuyên ngôn của A La Hán đã nói lên tất cả, bỏ lại quá khứ những gì của thế pháp, một đời sống mới vô thượng phạm hạnh đang ở trước mặt, do vậy ba thừa vào bát chánh đạo không phải để tu như thế gian thường hiểu vì “việc cần làm đã làm xong” thì cái gì gọi là tu ở đây? Nên có thể hiểu tu ở đây biểu thị cảnh giới vô tu vô chứng, trong Phật đạo vô tu vô chứng mới thiệt là tu.
- Vì sao bát chánh đạo là môi trường được làm nên bởi giới-định-huệ vô lậu? Khi nói đến đạo Phật người ta biểu thị bằng nhiều tên gọi: ‘Đạo vô lậu’, ‘đạo giác ngộ’, ‘đạo giải thoát’, ‘đạo trí tuệ’. Không phải vô cớ mà Phật giáo lại có những tên gọi như vậy.
- Những tên gọi này ăn sâu vào đời sống tu hành, kể cả ngoài thế gian, những tên gọi tốt đẹp trên trở thành biểu tượng của văn hóa Phật giáo, khi nghe một trong những tính chất này người ta hiểu ngay đó là đạo Phật. Như vậy Phật giáo bao gồm nhiều tính cách, mỗi tính cách nói lên cái tiêu biểu Phật giáo có được, không giống tính cách đạo khác hoặc thế gian có.
- Một trong những tính cách của Phật giáo là ‘vô lậu’. Vô lậu có nghĩa là không còn ‘rỉ chảy các món phiền não’ bởi cõi dục, cõi sắc, và cõi vô sắc.
Cao hơn nữa không chảy các pháp hữu vi, nếu có chảy thì chảy vô vi cam lồ, chúng sanh nào chạm đến sẽ hưởng được thanh lương thắng diệu.
Phật giáo rất coi trọng tính nhân quả, khi gieo nhân nếu tạo đủ duyên nhân ấy sẽ thành quả. 37 pháp trợ đạo chính là quá trình từ nhân đủ duyên thành quả và thọ báo. Nếu như tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc là nhân thì giới-định-huệ là thân cận duyên để thành tựu quả vị tư lương, làm hành trang vào thánh đạo. Ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi là nhân thì tam vô lậu là duyên để kết nên trái giải thoát thành tựu rốt ráo địa vị kiến đạo. Cuối cùng bát chánh đạo và giới-định-huệ vô lậu vừa là nhân vừa là duyên cho nhau để giữ gìn đạo quả. Vì thế trong bát chánh đạo, chánh ngữ chánh nghiệp chánh mạng thuộc về giới vô lậu; chánh tinh tấn chánh định thuộc định vô lậu; và chánh kiến chánh tư duy chánh niệm thuộc về huệ vô lậu. Phần này trong nhân đủ quả trong quả đủ nhân, nhân quả hòa vào nhau làm nên quả lớn là biển giác ngộ với báo lành là mùi vị thanh tịnh giải thoát.
Vì thế, bát chánh đạo đối với thánh quả là môi trường sống có đủ tính chất vô lậu của giới-định-huệ, hay giới-định-huệ vô lậu làm nên môi trường này. Cho nên bát chánh đạo giúp ba thừa sống trong thế giới riêng của họ đầy đủ sự sạch trong của tịnh hạnh và giải thoát. Bát chánh đạo thật ra là thấy biết, nói năng, suy nghĩ, hành động của thân khẩu ý. Khi thân khẩu ý được dưỡng nuôi bảo vệ trong môi trường như vậy, thì sự thành tựu rốt ráo chỉ là vấn đề tự nhiên.
Đoạn kinh sau nói về thành tựu của 37 phẩm:
“Niệm xứ trang nghiêm, khéo hay tu tập bốn quán niệm xứ. Chính cần trang nghiêm, đều hay dứt trừ hết thảy bất thiện pháp, thành hết thảy thiện pháp. Thần túc trang nghiêm, thường khiến thân tâm vui vẻ, nhẹ nhàng. Năm căn trang nghiêm, thâm tín kiên cố, tinh cần không biếng, thường không mê vọng, vắng lặng điều thuận, dứt mọi phiền não. Năm lực trang nghiêm, mọi oán diệt hết, không gì hoại được. Giác chi trang nghiêm, thường khéo giác ngộ hết thảy mọi pháp. Chính đạo trang nghiêm, được chính trí tuệ, thường hiện ở trước.
CHỈ trang nghiêm nên gột bỏ được hết thảy kiết sử.
QUÁN trang nghiêm nên hay như thực biết được tự tính của mọi pháp.
PHƯƠNG TIỆN trang nghiêm, chóng thành đầy đủ sự vui vô vi.” [[1]]
[[1]] Trích kinh Thập Thiện Đạo –HT. Thích Tâm Châu dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






