Văn Tự Bát Nhã, Vị Lai, Đương Lai

Các bạn!!!
Mình vừa nhận được emails của một số HĐ. Trong email của một HĐ có trích đoạn kinh nói về cảnh giới Phật. Đọc đoạn kinh trên, mình thấy rất hay và sâu thẳm. Mong mọi người cùng đọc để thấy ra nhiều điều hy hữu. Đặc biệt, trong đoạn kinh trên, sau khi Bồ Tát Văn Thù và Phật tuyên thuyết về “cảnh giới bất khả tư nghì”, ngay đó có vô số người tức thì thành tựu các quả vị thậm thâm trong Phật Đạo. Ví dụ như các đoạn:
“Khi Bồ Tát thuyết pháp ấy, có năm trăm Tỳ kheo tăng ở trong chúng, vĩnh viễn đoạn trừ các lậu, tâm được giải thoát, tám trăm các thiên tử xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Lại có bảy trăm các thiên tử nghe sự biện tài của ngài, sanh lòng tin thích sâu xa. Họ đều phát tâm A Nậu đa la tam miệu tam Bồ đề”.
Hoặc:
“Khi Bồ tát nói pháp này, hai trăm Tỳ kheo ở trong hội vĩnh viễn chấm dứt các lậu, tâm được giải thoát. Tất cả đều cởi áo đang mặc trên thân, dâng lên Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, thưa rằng: Nếu có chúng sanh được nghe diệu pháp sâu xa này nên sanh tâm tín thọ. Nếu họ không sanh lòng tin mà cầu chứng ngộ thì không bao giờ có được”.
Các bạn!!!
Cái vi diệu của chánh pháp là ở chỗ này, đây mới đích thực là chánh pháp. Nếu không phải là chánh pháp, thì chẳng thể tuyên thuyết một thời mà lại có công dụng khiến người giác ngộ mau chóng như vậy. Việc hy hữu này, chẳng phải là điều để chúng ta suy gẫm hay sao???
Về bài viết của một HĐ:
a) Đọc bài viết của HĐ này, mình mạn phép chỉnh chữ “phá chấp về thời gian”, bằng chữ “thật nghĩa củ̉a thời gian”.
Vì sao phải sửa như vậy???
Tu hành trong Phật Đạo, là “giác ngộ nghĩa chân thật” để trở về với “bản nguyên chân thật”. Giống như người lầm đường, nay biết con đường đúng, tự quay trở lại. Sự quay trở lại này “mang tính chân lý” và “tự giác”. Sự quay lại này không phải là việc làm để “phá con đường sai”, vì thế chữ “phá” khi sử dụng, khiến người dễ hướng ngoại, dễ khiến mình người sanh tâm, dễ khiến mình người thấy có chủ thể phá và đối tượng bị phá. Thấy biết bởi chữ “phá”, đi tìm “cái để phá”, sẽ dễ sanh Ngã, khó có thể khiến người Giác Ngộ trực nhận ra điều gì đó. Xin các HĐ lưu ý, nhằm tránh “kẹt Tứ Cú” khi tuyên thuyết sau này.
b) Về chữ “tương lai”, mình mạn phép sửa thành “vị lai”.
Vì sao lại phải sửa như vậy???
Để chỉ cho “thời gian sẽ đến”, có ba từ ngữ nhằm chỉ cho việc này. Ba từ ngữ đó là: tương lai, vị lai và đương lai.
Tương lai.
Đây là từ ngữ của thế gian, nhằm chỉ thời gian sắp đến, trong đó mang tính tương tục, kế thừa của cái hiện tại. Có nghĩa nhờ vào nhân hiện tại mà có quả của tương lai.
Ví dụ: Hôm nay Anh cần cù, siêng năng làm việc để kiếm nhiều tiền, thì tương lai Anh sẽ không bị đói. Không bị đói trong tương lai, đó là kết quả tương tục của sự cần cù hôm nay. Một hữu vi cho ra một hữu vi.
Vị lai.
(Vị: Chưa; Lai: Đến): Chữ vị lại là thuật ngữ đặc trưng của Phật Đạo. Thuật ngữ này chỉ một việc, hành động nào đó có thể xảy ra vào thời gian sắp đến, nó không mang tính kế thừa, hoặc do bởi sự tương tục của hiện tại.
Ví dụ: Hiện tại chúng sanh mê muội nên khổ đau, vị lai chúng sanh này có thể giác ngộ thoát khỏi phiền não. Cái giác ngộ của vị lai, không do bởi sự mê muội hôm nay, có nghĩa quả giác ngộ không phải là sự thành tựu của nhân mê muội. Chữ vị lai khi tuyên thuyết đúng thời, thiện xảo, có thể khiến người dứt tâm tương tục, thấu suốt bản chất của nhân quả.
Đương lai.
(Đương: Ngay đó): Đây là từ ngữ nhằm chỉ cảnh giới Giác Ngộ Tối Hậu. Giác ngộ tối hậu, không phải là tương lai, cũng không phải là vị lai. Vì nó đã tịch diệt, ra khỏi tính chất thời gian, đối đãi, suy lường, biện biệt.
Ví dụ: Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. Có nghĩa ngay tức thì trong thời gian đó. Có thể là bây giờ, có thể là một sát na của vị lai, có thể là lâu xa. Vị ấy Thành Phật. Thành Phật không do bởi một sự kế thừa, hoặc do một “chuẩn thời gian” nào hết.
Các bạn!!!
Đành rằng ngôn ngữ chỉ là những tín hiệu để trao đổi thông tin cho nhau, chỉ là những ký hiệu giúp nhau nhận biết điều gì đó. Nhưng thực tế, mỗ̃i môn học, mỗ̃i ngành nghề trên cõi đời này đều có những tín hiệu, những ký hiệu mang đậm nét đặc trưng riêng. Nếu ta sử dụng tín hiệu hoặc ký hiệu không chuẩn mực, sai ngành nghề, sai công việc, nhất định sẽ sanh ra "những lầm nhận đáng tiếc" đó là không thực hiện được công việc từ những ký hiệu, tín hiệu phát sai, nhận sai này. Thậm chí có thể đưa đến những sai lệch do thông tin không chuẩn xác.
Vì thế, Phật Đạo có “Bát Nhã Âm”, có “Bát Nhã Quang”, có “Bát Nhã Trí”, có “Bát Nhã Lực”, có “Bát Nhã Dụng”, có “Bát Nhã Lực Dụng”, có “Bát Nhã Chân Thiệt”, có “Tương Tợ Bát Nhã”, và vô số “Bát Nhã Công Dụng” như thế.
Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, nhờ thấu suốt và thiện xảo sử dụng Bát Nhã ngữ ngôn, nên khi tuyên thuyết “Pháp Thậm Thâm”, người nghe liền thành tựu những điều cần thành tựu trong tức thì, không cần kinh qua một cái gì cả. Điều này Phật Giáo gọi là: “Vô Công Dụng Đạo”, “Ngữ ấy tức nghĩa”, mà đoạn kinh được dẫn chứng ở trên là một ví dụ điển hình.
Mong các HĐ chú ý, học tập, thấm nhuần. Để vị lai có thể giúp mình, giúp người tốt hơn, đúng chánh pháp hơn. Gọi là lời tuyên thuyết: “Không kẹt tứ cú, không bị bốn bệnh, không rơi vào bốn tướng”.
Nói khác hơn, loại văn tự đặc trưng này chính là "Văn Hóa Vô Lậu", chính là "Bát Nhã" vậy.
(13-05-2014)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






