Phật Thuyết Kinh Bốn Mươi Hai Chương & Phần 4

 0
Phật Thuyết Kinh Bốn Mươi Hai Chương & Phần 4

Chương 28: ĐỪNG THEO “CON NGỰA” Ý NIỆM

Đức Phật dạy: "Phải thận trọng, chớ tin ý ông; ý của ông không thể tin được. Phải thận trọng, chớ gần gũi sắc dục; gần gũi sắc dục tất sanh họa.[[1]] Chứng được A la hán rồi mới có thể tin được ý ông."

Chương 29: QUÁN TƯỞNG CHÂN CHÁNH THẮNG ĐƯỢC SẮC DỤC

Đức Phật dạy: “Hãy thận trọng, đừng nhìn ngó nữ sắc, cũng đừng nói năng với họ. Nếu phải nói chuyện với họ, hãy chánh tâm nhớ nghĩ: “Ta là bậc Sa môn sống ở đời ô trược,[[2]] phải như hoa sen chẳng bị bùn làm ô uế.” Tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, kẻ nhỏ như em, đứa bé như con; rồi sanh lòng độ thoát thì mới diệt được niệm xấu.”

Chương 30: LÁNH XA LỬA DỤC

Đức Phật dạy: "Người hành Đạo cũng giống như cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người tu Đạo thấy sự dục lạc tất phải tránh xa."[[3]]

Chương 31: TÂM VẮNG LẶNG, DỤC VỌNG DỨT

Đức Phật dạy: "Có người lo lòng dâm dục chẳng dứt được, muốn tự đoạn âm. Phật bèn bảo rằng: “Đoạn âm không bằng đoạn tâm.[[4]] Tâm như người Chủ, thân như kẻ làm công. Nếu người Chủ nghỉ, thì kẻ tòng sự đều nghỉ. Tà tâm chẳng dứt, đoạn âm ích gì?” Đức Phật vì đó mới nói bài kệ:

"Dục sanh từ ý ông,           

Ý do tư tưởng sanh.       

Cả hai tâm vắng lặng,[[5]]   

Phi sắc cũng phi hành."

Đức Phật dạy: "Bài kệ này do Đức Phật Ca Diếp nói"[[6]]

Chương 32: KHÔNG CÒN “NGÔ THÌ HẾT SỢ HÃI

Đức Phật dạy: "Người ta vì ái dục mà sanh lo, vì lo mà sanh sợ. Nếu xa lìa được ái dục thì còn gì để lo, còn gì để sợ?"

Chương 33: TRÍ HUỆ VÀ SỰ SÁNG SUỐT PHÁ TAN CHÚNG MA

Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như một người chiến đấu với muôn người; mang giáp ra cửa, hoặc có ý khiếp nhược, hoặc nửa đường rồi lui, hoặc chống cự đến chết, hoặc đắc thắng mà về.

Sa môn học đạo nên giữ vững lòng mình, tinh tấn dũng mãnh, chẳng sợ những gì sắp tới, phá diệt chúng ma[[7]] mà chng đắc đạo qu.

Chương 34: GIỮ TRUNG DUNG, TẤT ĐẮC ĐẠO

Có thầy Sa môn ban đêm tụng kinh Di Giáo của Phật Ca Diếp,[[8]] giọng nghe có vẻ buồn thảm, hối hận muốn thụt lùi.

Đức Phật hỏi: "Trước kia, ông ở nhà từng làm nghề gì?"

Đáp rằng: "Thưa, con thích gảy đàn cầm."

Phật hỏi: "Dây đàn chùng thì sao?"

Đáp rằng: "Thưa, thì không rền vang được."

          …  "Dây đàn căng thì sao?"

Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh đứt đoạn."

           …  "Chùng, căng vừa chừng thì sao?"

Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh phổ khắp."

Đức Phật dạy: "Bậc Sa môn học Đạo cũng thế. Tâm, nếu giữ chừng mực thì Đạo có thể chứng được. Đối với Đạo, nếu hấp tấp thì thân mỏi mệt; thân nếu mỏi mệt thì ý liền sanh phiền não; ý nếu sanh phiền não thì hành liền thụt lùi; hành đã thụt lùi thì tội tất thêm lên. Chỉ có thanh tịnh, an lạc thì Đạo mới không mất vậy!"

Chương 35: SẠCH CÁU BẨN, CHỈ CÒN VẺ SÁNG

Đức Phật dạy: "Như người luyện sắt loại bỏ chất cặn rồi làm thành đồ dùng thì đồ dùng được tinh hảo; người học Đạo từ bỏ tâm cấu nhiễm thì hạnh liền thanh tịnh vậy."

Chương 36: SỰ CHUYỂN ĐỔI THÙ THẮNG

Đức Phật dạy:

1) "Ra khỏi ác đạo,[[9]] được làm người là khó;

2) Đã được làm người, bỏ thân nữ được thân nam[[10]] là khó;

3) Đã được thân nam, sáu căn[[11]] đầy đủ là khó;

4) Sáu căn đã đủ, được sanh nơi xứ trung tâm[[12]] là khó;

5) Đã sanh nơi xứ trung tâm, gặp Phật ra đời là khó;

6) Đã gặp Phật ra đời, lại được gặp bậc tu Đạo là khó;

7) Đã được gặp Đạo, lại sanh lòng tin là khó;

8) Đã sanh lòng tin, lại phát tâm Bồ đề[[13]] là khó;

9) Đã phát tâm Bồ đề, mà đạt đến chỗ vô tu, vô chứng[[14]] là khó." 

Chương 37: NGHĨ ĐẾN GIỚI LÀ GẦN VỚI ĐẠO

Đức Phật dạy: "Phật tử ở cách Ta vài ngàn dặm mà nhớ nghĩ đến Giới của Ta, tất sẽ chứng được Đạo quả; còn ở ngay bên phải bên trái Ta, tuy thường trông thấy Ta, nhưng chẳng y theo Giới của Ta, thì rốt cuộc sẽ không đắc được Đạo."

Chương 38: CÓ SANH TẤT CÓ DIỆT

Đức Phật hỏi một vị Sa môn: "Mạng người được bao lâu?"

− Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng vài ngày."

Đức Phật dạy: "Ông chưa hiểu Đạo!" Lại hỏi một vị Sa môn khác: "Mạng người được bao lâu?"

− Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng một bữa ăn."

Đức Phật dạy: "Ông chưa hiểu Đạo." Lại hỏi một vị Sa môn khác: "Mạng người được bao lâu?"

− Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng một hơi thở."

Đức Phật dạy: "Lành thay! Ông đã hiểu Đạo rồi vậy!"

Chương 39:  PHẬT PHÁP NHẤT VỊ

Đức Phật dạy: "Người học Đạo Phật, đối với những lời Phật nói đều phải nên tín thuận. Ví như ăn mật, trong ngoài đều ngọt; kinh điển của Ta cũng vậy."[[15]]

Chương 40: TÂM PHẢI THỰC HÀNH THEO ĐẠO

Đức Phật dạy: "Bậc Sa môn hành Đạo[[16]] đừng như con trâu kéo xay,[[17]] tuy thân hành Đạo nhưng tâm lại chẳng theo Đạo. Nếu tâm theo Đạo thì cần gì hành Đạo?"[[18]]

Chương 41: NHẤT TÂM NIỆM ĐẠO, DỨT TRỪ DỤC VỌNG

Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như con trâu chở nặng đi trong bùn sâu. Trâu hết sức mỏi mệt, chẳng dám nhìn phải ngó trái; ra khỏi chỗ bùn lầy rồi mới được thư thả. Bậc Sa môn phải quán tưởng tình dục còn hơn cả bùn lầy. Phải một lòng chuyên chú[[19]] nhớ đến Đạo thì mới có thể thoát được sự khổ." 

Chương 42: HIỂU ĐƯỢC CÕI ĐỜI LÀ HƯ HUYỄN

Đức Phật dạy: "Ta xem ngôi vị Vương, Hầu như bụi qua kẽ hở;[[20]] xem vàng ngọc quý báu như ngói gạch vỡ; xem y phục bằng tơ lụa như vải thô; xem đại thiên thế giới như một trái táo;[[21]] xem nước hồ A nậu[[22]] như dầu thoa chân.

"Xem môn phương tiện như đống châu báu hóa hiện; xem Vô thượng Thừa[[23]] như giấc mộng vàng lụa; xem Phật Đạo như hoa trước mắt; xem Thiền Định như trụ chống đỡ núi Tu di;[[24]] xem Niết bàn[[25]] như ngày đêm đều thức; xem sự đảo và chánh[[26]] như sáu con rồng múa lượn;[[27]] xem sự bình đẳng[[28]] như Nhất chân địa; xem sự hưng hóa như cây cối bốn mùa."[[29]]

Các vị đại tỳ kheo nghe Phật thuyết kinh này xong, thảy đều vui vẻ phụng hành.

Hết chương 42 (Trọn bộ)

---

Phần chú giải

[[1]] Tâm ý của người ta hay chạy theo cảnh ngoài, như con ngựa không cương. Phải kiềm chế, chú tâm vào đạo lý. Nhất là đừng một mình tiếp xúc với đàn bà, con gái…  

   Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, khi thánh giới được giác ngộ, thể nhập thánh định, thánh trí, thánh giải thoát cũng được giác ngộ, thể nhập. Khi những pháp này được thể nhập thì sợi dây hữu ái sẽ được cắt đứt, sợi dây đưa đến sinh hữu được đoạn tận và không còn tái sinh.” (Tăng Chi II, tr. 527)

  Do đó, chỉ khi nào chứng được A la hán mới có thể tự tin nơi tâm ý mình

[[2]]  ô trược: Nhơ bẩn, điều không tốt lành; Ngũ trược (năm thứ nhiễm ô ở cõi Ta bà): Kiếp trược (kỳ kiếp trược), Kiến trược (sự thấy biết ô trược), Phiền não trược, Chúng sanh trượcMạng trược (đời sống ô trược).

[[3]] Người tu hành chớ nên tham đắm các dục, phải biết hộ trì các căn.

[[4]] Kinh văn là "đoạn âm", "âm" ở đây là âm hành (nam căn), là bộ phận sinh dục nam. “Nam căn” có động đều là do vọng tâm khởi lên. Nếu tâm được yên lặng, nam căn cũng nguội lạnh theo. Cho nên tâm ví như người cai quản, nam căn chỉ như người làm theo.

[[5]] Kinh văn là "nhị tâm", tức là chỉ đến ý và tư tưởng vừa nói ở hai câu trên.

[[6]] Phật Ca diếp (S: Kãsyapa; P: Kassapa): Đức Phật quá khứ, trước Phật Thích ca; cũng như đức Phật Thích ca trước Phật Di lặc.

[[7]] Có bốn loại ma: 1)Tử ma (ma chết); 2)Ấm ma (Ngũ ấm gồm: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm); 3)Thiên ma (Ma vương và quyến thuộc); 4)Phiền não ma (ma phiền não). Các thứ ma này do tâm mêbiến hiện.

[[8]] Kinh Di giáo ở đây là chỉ kinh ghi lại lời dạy dỗ, dặn dò của Phật Ca diếp (trước Phật Thích ca).

[[9]] Các đường ác: nơi đọa lạc, lãnh chịu các ác nghiệp. Có ba đường ác là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

[[10]] Thân người nam quý hơn người nữ, vì dễ tu hành hơn. Khi Phật còn tại thế, ban đầu cũng chưa muốn cho người nữ xuất gia, vì có lắm điều bất tiện.

[[11]] Sáu căn là: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong thân là bao hàm cả tứ chi và các bộ phận. Làm người được sáu căn trọn đủ, tránh khỏi tàn tật là khó.

[[12]] Kinh văn là "trung quốc", là ở giữa nước (ở vùng trung tâm). Dùng ý này là đối nghịch với "biên địa hạ tiện", tức là những nơi biên thùy, xa xôi hẻo lánh, văn minh không truyền đến đầy đủ.

[[13]] Phát tâm Bồ đề: Phát khởi cái chí nguyện tu hành cho đến khi thành Phật.

[[14]] Chỗ vô tu, vô chứng: Chỗ không còn gì để tu, để chứng. 

  −  Bậc “Vô Tu Vô Chứng”: Vị tu hành này sau khi thành tựu trí tuệ, vào Đẳng Giác Bồ Tát, tức Bồ Tát biết cái Phật biết, thấy cái Phật thấy, chứng điều Phật chứng... Thế nên, đạo quả này còn gọi là Vô Tu Vô Chứng...

   −  Gọi Vô Tu Vô Chứng là vì Bồ Tát này không còn gì để tu, không còn gì để chứng, chứ chẳng phải Vô Tu Vô Chứng là không biết cái để tu, chẳng biết cái để chứng như đa số người tu hành thường hiểu...

  Phật đạo còn gọi quả vị này là Vô Dị Biệt Quả, tức vị ấy với chánh pháp không còn khác biệt...

[[15]] Tỷ như mật ngọt, dù nếm chỗ nào cũng là vị ngọt. Kinh điển của Phật cũng như thế, dù trước, sau, khoảng giữa cũng chỉ thuần một vị giải thoát mà thôi.

[[16]] hành Đạo: Tâm thuận theo chân lý.

[[17]] Lấy ví dụ con trâu kéo cối xay, nó làm như vậy là do bắt buộc, lại vô tâm (không chú tâm) mà làm. Vị sa môn không nên như vậy.

[[18]] Đạo ở nơi tâm và trí chứ chẳng phải ở nơi thân hoặc hình tướng bên ngoài.

[[19]] Kinh văn là "trực tâm": Lòng ngay thẳng, không tà vạy, không nịnh bợ, không dối gạt (một lòng.. một dạ).      

   Kinh Duy ma nói: "Trực tâm là đạo tràng." Kinh Lăng Nghiêm nói: "Chư Phật mười phương đều đồng một đạo, thảy đều dùng trực tâm mà ra khỏi sanh tử."

   Hình ảnh con trâu là hình ảnh của người tinh tấn. Có thể nói, tinh tấn là điều kiện tiên quyết, là chìa khóa vạn năng, là cẩm nang ý chí hướng đến thành công và thành công một cách mỹ mãn. Với dục hạ liệt là ý muốn mãnh liệt để thực thi điều bất thiện, thì tinh tấn hướng hành giả đến sự an lạc, giải thoát. Do đó, tu học đạo giải thoát mà không có tinh cần tinh tấn, thời không bao giờ đạt được đạo quả.

   Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, hãy nỗ lực với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sinh, thời không cho sinh khởi lên. Các ác, bất thiện pháp đã sinh được trừ diệt. Các thiện pháp từ trước chưa sinh, nay làm cho sinh khởi. Các thiện pháp đã sinh, cố gắng duy trì, làm cho tăng trưởng, quảng đại, được tu tập, được viên mãn.” (Tăng Chi I, tr. 365). 

    Kệ Pháp cú cũng xác nhận:   “Vui thích không phóng dật / Không thể bị thối đọa / Tỳ kheo sợ phóng dật / Nhất định gần Niết bàn.” (Dhp _Pháp cú. 32)

[[20]] Kinh văn là "quá khích trần".

[[21]] Kinh văn là "ha tử", trái ha, hạt ha, nói đủ là Ha lê lặc (Haritaki), cũng đọc là Ha la lặc, Ha lỵ lặc. Trái ấy chất đắng, dùng làm thuốc, bằng cỡ như trái táo. Đây chỉ dùng với ý so sánh về kích thước, nên chúng tôi thay hẳn bằng trái táo cho dễ hiểu.

[[22]] A nậu (tiếng Phạn: Anavatapta; Hán dịch âm là A nậu, A nậu đạt, nói đủ là A na bà đạp đa; Hán dịch nghĩa là Vô nhiệt não): Hồ A nậu ở trong núi Hy mã lạp, nước hồ có đủ tám công đức.

[[23]] Lời nói để tán xưng giáo pháp chí cực, tức là Đại thừa. Kinh Hoa nghiêm nói: "Qua khỏi hai thừa (Nhị thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa), gọi là Đại thừa, Đệ nhất thừa, Thắng thừa, Tối thắng thừa, Thượng thừa, Vô thượng thừa, Lợi ích nhất thiết chúng sanh thừa."

[[24]] Núi Tu di (Hán dịch là Diệu cao sơn): Cũng viết Tu di lâu, Tu mê lư.

[[25]] Niết bàn (S: Nirvana; Hán dịch âm là Niết bàn na, Nê hoàn, Nê bạn): Cảnh giới dứt sạch các phiền não của tham dục, sân nhuế và ngu si.

   Niết (Nir) nghĩa là "ra khỏi". Bàn hay Bàn na (vana) nghĩa là "rừng". Niết bàn là ra khỏi rừng mê tối, rừng phiền não.

  Hán dịch nghĩa có những tên gọi khác như Tịch, Diệt độ, Bất sanh, Vô vi, An lạc, Giải thoát, Viên tịch…

[[26]] Kinh văn là "đảo chánh". Chỗ thấy biết quấy bậy, ngược ngạo, gọi là "đảo". Chỗ thấy biết chánh đáng, đúng đắn, gọi là "chánh". Như lấy khổ làm vui, lấy vô thường làm thường, lấy vô ngã làm ngã, lấy bất tịnh làm tịnh, gọi là đảo, đảo kiến hay điên đảo kiến. Ngược lại thì gọi là chánh, chánh kiến, chánh tri kiến.

[[27]] Sáu con rồng lượn múa: Phật xem chánh kiến với đảo kiến chẳng qua như rồng lượn múa, quay đầu ra đuôi, lộn đuôi ra đầu.

[[28]] Bình đẳng như địa vị chân thật duy nhất: Nếu tu đắc Bình đẳng tâm thì đạt tới cảnh chân tuyệt đối. Phật đem tâm bình đẳng đối với chúng sanh, yêu thương tất cả như con một của mình.

[[29]] Việc hành hóa đạo lý như cây cối bốn mùa: Khi đắc bình đẳng rồi, khi chứng địa vị chân thật duy nhất rồi, Bồ tát nương địa vị ấy mà hóa đạo, tiếp độ chúng sanh, cũng như cây cối bốn mùa nương đất đai mà sanh nảy vậy.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG