Kinh Duyên Sinh & Phần 1

 0
Kinh Duyên Sinh & Phần 1

KINH DUYÊN SINH

(Tức: Phật Thuyết Đại Thừa Đạo Can Kinh) [[1]] 
(Hán dịch Việt: TK. Thích Tâm Châu)

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Thế Tôn ở trong núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ Khưu và các vị Đại Bồ Tát.

Bấy giờ, Cụ Thọ Xá Lỵ Tử đến chỗ kinh hành[[2]] của Đại Bồ Tát Di Lặc. Đến nơi, hai vị cùng hỏi thăm nhau và cùng ngồi trên bàn đá rộng lớn.  Liền đó,

Cụ Thọ Xá Lỵ Tử hướng vào Đại Bồ Tát Di Lặc nói rằng: "Bồ Tát Di Lặc! Hôm nay đức Thế Tôn quán sát thấy những lúa nếp nơi đồng nội, Ngài bảo các vị Tỳ Khưu: "Các vị Tỳ Khưu Nếu ai thấy được Nhân duyên, tức là người ấy thấy được Pháp; nếu ai thấy được Pháp, tức là người ấy thấy được Phật".  Ngài nói những lời ấy rồi, Ngài lặng thinh không nói gì nữa.  Bồ Tát Di Lặc! Đấng Thiện Thệ[[3]] cớ sao lại nói ra những lời ấy?

  • Việc ấy thế nào? •Gì là Nhân duyên? •Gì là Pháp?   •Gì là Phật?   •Thế nào là thấy được Nhân duyên, tức là thấy được Pháp?   •Thế nào là thấy được Pháp, tức là thấy được Phật?

Cụ Thọ[[4]] Xá Lỵ Tử nói lời ấy rồi, Đại Bồ Tát Di Lặc đáp lại Cụ Thọ Xá Lỵ Tử rằng: "Nay Phật, Pháp Vương, Chánh Biến Tri bảo các vị Tỳ Khưu: “Nếu ai thấy được Nhân duyên, tức là người ấy thấy được Pháp; nếu ai thấy được Pháp tức là người ấy thấy được Phật”; vậy trong này thời cái gì là Nhân duyên?

−Nói là Nhân duyên, thời: "đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh". Như: Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thụ, Thụ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh khởi được. Như thế, là chỉ sinh khởi sự kết tụ những khổ đau lớn lao, thuần nhất, cùng cực vậy.

−Cũng trong này, Vô minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thức diệt nên Danh sắc diệt, Danh sắc diệt nên Lục nhập diệt, Lục nhập diệt nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thụ diệt, Thụ diệt nên Ái diệt, Ái diệt nên Thủ diệt, Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Sinh diệt, Sinh diệt nên Lão tử, sầu, thán, khổ, ưu, não cũng diệt. Như thế là chỉ diệt sự kết tụ những khổ đau lớn lao, thuần nhất, cùng cực. Đó là đức Thế Tôn nói ra pháp Nhân duyên vậy.

  • Gì là Pháp?

−Là tám Chánh đạo: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, và Chính định. Thế là tám Chánh đạo quả và Niết Bàn, đức Thế Tôn nói ra, gọi đấy là Pháp. 

  • Gì là Phật?

−Là bậc biết hết thảy các pháp. Trí Tuệ của bậc kia[[5]] thấu suốt hết thảy các pháp đưa đến nhân Bồ Đề cũng như địa vị Hữu Học, Vô học.

  • Thế nào là thấy được Nhân duyên?

−Như đức Phật nói: “Nếu ai thấy được những pháp của nhân duyên là thấy được nhân duyên. Những pháp ấy là: thường, vô thọ, ly thọ, như thực tính, vô thác mậu tính, vô sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng ngại, vô cảnh giới, tịch tĩnh, vô úy, vô xâm đoạt bất tịch tĩnh tướng.”[[6]]

Nếu ai thấy được pháp của nhân duyên như thế rồi, đối với Pháp ấy cũng phải thấy là: thường, vô thọ, ly thọ, như thực tính, vô thác mậu tính, vô sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng ngại, vô cảnh giới, tịch tĩnh, vô úy, vô xâm đoạt, bất tịch tĩnh tướng. Được Chánh trí ngộ được Thắng pháp, dùng Vô thượng Pháp thân mà thấy Phật.

  • Hỏi: Tại sao gọi là Nhân Duyên?

Đáp: Có Nhân, có Duyên gọi là Nhân duyên, không phải là không có nhân, không có duyên, nên gọi là pháp nhân duyên.

Đức Thế Tôn nói qua về hành tướng của nhân duyên rằng: “Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như Lai xuất hiện ra đời hay không xuất hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp vẫn thường trụ. Cho đến pháp tính, pháp trụ tính,[[7]] pháp định tính,[[8]] cùng nhân duyên tương ứng tính,[[9]] chân như tính,[[10]] vô thác mậu tính,[[11]] vô biến dị tính,[[12]] chân thực tính,[[13]] thực tế tính,[[14]] bất hư vọng tính,[[15]] bất điên đảo tính,”[[16]] v.v... 

Đó là đức Thế Tôn nói những lời như thế.

  • Pháp Nhân duyên này, vì hai thứ mà nó sinh khởi được. Hai thứ ấy là gì?

−Là: Nhân tương ứngDuyên tương ứng. Nhân duyên kia lại có hai thứ: Ngoại nhân duyênNội nhân duyên.

  • Trong này gì là pháp ngoại nhân duyên, nhân tương ứng?

−Từ hạt giống sinh ra mầm, từ mầm sinh ra lá, từ lá sinh ra thân cây, từ thân cây sinh ra đốt, từ đốt sinh ra nụ, từ nụ sinh ra hoa, từ hoa sinh ra trái; nếu không có hạt giống, mầm tức không sinh, cho đến nếu không có hoa, trái cũng không sinh được. Có hạt giống, mầm mới sinh được, như thế thời có hoa, trái cũng mới sinh được.

−Song, hạt giống kia cũng không khởi ra ý niệm: "ta sinh ra mầm". Mầm cũng không khởi ra ý niệm: "ta từ hạt giống sinh ra". Cho đến hoa cũng không khởi ra ý niệm: "ta sinh ra trái". Trái cũng không khởi ra ý niệm: "ta từ hoa sinh ra".

−Tuy thế, vì có hạt giống mà mầm được sinh ra và cũng như thế, vì có hoa mà trái liền được thành tựu.

Nên quán sát cái nghĩa "ngoại nhân duyên pháp, nhân tương ứng" như thế!

  • Nên quán sát ngoại nhân duyên pháp, duyên tương ứng như thế nào?

−Cần sáu giới[[17]] hòa hợp.

  • Gì là sáu giới hòa hợp?

−Là: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giớithời. Những giới phận ấy hòa hợp với nhau, thời ngoại nhân duyên pháp sinh khởi được.

Nên quán sát cái nghĩa "ngoại nhân duyên pháp, duyên tương ứng" như thế! ... Nói về:

  • Địa giới là thứ thường giữ gìn cho hạt giống;
  • Thủy giới là thứ thường nhuần thấm cho hạt giống;
  • Hỏa giới là thứ thường giúp hơi ấm cho hạt giống;
  • Phong giới là thứ thường giúp sự dao động cho hạt giống;
  • Không giới là thứ không làm chướng ngại cho hạt giống;
  • Thời, thời có thể làm cho hạt giống biến đổi.

−Nếu không có những duyên ấy, hạt giống không thể nào sinh ra mầm được.

−Nếu ngoài, địa giới hoàn toàn đầy đủ, cho đến thủy, hỏa, phong, không, thời giới... cũng hoàn toàn đầy đủ như thế, lại hết thảy hòa hợp, thời khi hạt giống diệt rồi, mầm sinh ra được.

−Và, trong này Địa giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường giữ gìn hạt giống". Cùng như thế, Thủy giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường nhuần thấm cho hạt giống";  Hỏa giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường giúp hơi ấm cho hạt giống"; Phong giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường giúp sự dao động cho hạt giống"; Không giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường không làm chướng ngại cho hạt giống"; Thời cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường làm cho hạt giống biến đổi".  Hạt giống cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường sinh ra mầm"; mầm cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay từ những duyên ấy mà sinh ra".

−Tuy thế, có những duyên ấy, khi hạt giống diệt rồi, mầm liền sinh ra được. Và, cũng như thế, khi có hoa, trái liền sinh ra được. Thế là, mầm kia cũng không phải tự mình tạo tác, cũng không phải là cái khác tạo tác, không phải tự nó cùng cái khác tạo tác, không phải là tự tại tạo tác, cũng không phải là thời biến đổi, không phải là tự tính sinh ra, cũng không phải là không có nhân mà sinh ra được.

−Dù vậy, địa, thủy, hỏa, phong, không, thời giới... hòa hợp, khi hạt giống diệt rồi, mầm được sinh ra.

Nên quán sát cái nghĩa "ngoại nhân duyên pháp, duyên tương ứng" như thế!

  • Nên đem năm thứ quán pháp, quán ngoại nhân duyên pháp kia. Năm thứ ấy là gì?

−Là: không thường còn, không dứt đọan,[[18]] không chuyển dời,[[19]] từ nhân nhỏ sinh quả lớn và cùng tương tự với nhân cũ kia.

  • Thế nào là không thường còn?

−Vì, mầm cùng hạt giống, hai đàng đều khác biệt nhau; mầm kia không phải là hạt giống; không phải khi hạt giống hoại rồi, mầm mới sinh ra, cũng không phải là hạt giống không diệt, mà mầm sinh khởi được; khi hạt giống hoại đi, mầm sinh ra được, nên là "không thường còn".

  • Thế nào là không dứt đoạn?

−Không phải là hạt giống của quá khứ hoại đi, mà sinh ra mầm, cùng không phải là hạt giống không diệt, mầm sinh khởi được, hạt giống cũng hoại, đương trong khi ấy, nó chỉ như cán cân cao, thấp một chút, mà mầm sinh ra được, nên là "không dứt đoạn".

  • Thế nào là không chuyển dời?

−Vì, mầm và hạt giống khác nhau, mầm không phải là hạt giống, nên là "không chuyển dời".

  • Thế nào là nhân nhỏ sinh quả lớn?

− Từ hạt giống nhỏ, sinh ra quả lớn, nên gọi là "Từ nhân nhỏ, sinh ra quả lớn".

  • Thế nào là cùng tương tự với nhân cũ kia?

−Vì, như hạt giống khi mới trồng, chẳng khác quả này, nên gọi là "cùng tương tự với nhân cũ kia".

−Như thế là đem năm thứ quán pháp, quán ngoại nhân duyên pháp! [[20]]

  • Cũng như thế, nội nhân duyên pháp cũng do hai thứ mà được sinh khởi. Hai thứ ấy là gì?

−Là: nhân tương ứngduyên tương ứng.

  • Thế nào mà có nghĩa gọi là nội nhân duyên pháp, nhân tương ứng?

−Nghĩa là, trước từ vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử. Nếu vô minh không sinh, hành cũng không có, cho đến nếu không có sinh, lão tử cũng không có. Như thế, có vô minh nên hành mới sinh ra được, cho đến có sinh nên lão tử mới có được.

−Song, vô minh cũng không khởi ra ý niệm: "ta sinh ra hành"; hành cũng không khởi ra ý  niệm: "ta từ nơi vô minh mà sinh ra"; cho đến sinh cũng không khởi ra ý niệm: "ta sinh ra lão tử"; lão tử cũng không khởi ra ý niệm: "ta từ nơi sinh mà có".

−Tuy thế, vì có vô minh, hành mới sinh được; cũng như thế, vì có sinh, lão tử mới có được.

Vì vậy, nên quán sát nghĩa "nội nhân duyên pháp, nhân tương ứng" như thế!

  • Nên quán sát sự của nội nhân duyên pháp, duyên tương ứng thế nào?

−Cần sáu giới hòa hợp.

  • Sáu giới hòa hợp là gì?

−Là: Địa giới; Thủy giới; Hỏa giới; Phong giới, Không giới và Thức giới hòa hợp.

Nên quán sát sự của "nội nhân duyên pháp, duyên tương ứng" như thế!

  • Gì là hành tướng của sáu giới, trong nội nhân duyên pháp?

−Thứ làm cho trong thân này bền chắc, gọi là "địa giới";

−Thứ làm cho thân này tụ tập lại, gọi là "thủy giới";

−Thứ làm tiêu hóa những thức ăn, uống trong thân này, gọi là "hỏa giới";

−Thứ làm cho hơi thở ra, vào; trong, ngoài trong thân này, gọi là "phong giới";

−Thứ làm cho thân này rỗng thông, gọi là "không giới"

−Năm thức của thân tương ứng[[21]] cùng hữu lậu ý thức, cũng như bó cây lau, thành tựu được cái mầm danh sắc[[22]] gọi là "Thức giới".

Nếu không có những duyên ấy, thời không sinh ra thân được. Nếu nội địa giới hoàn toàn đầy đủ, và cùng như thế, cho đến thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới cũng hoàn toàn đầy đủ, lại hết thảy hòa hợp với nhau, thời thân liền sinh ra được.

−Song, địa giới kia cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường làm những sự bền chắc trong thân"; Thủy giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường vì thân làm những sự tụ tập"; Hỏa  giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường làm tiêu hóa những thức ăn, uống trong thân"; Phong giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường làm cho hơi thở ra, vào trong, ngoài thân"; Không giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường làm những sự rỗng thông trong thân"; Thức giới cũng không khởi ra ý niệm: "ta thường làm thành tựu cái mầm danh sắc của thân này”; Thân cũng không khởi ra ý niệm: "ta từ nơi mọi duyên này mà sinh ra". Tuy thế, có thời của các duyên này, thân liền sinh ra được.

Nhưng, địa giới kia cũng không phải là Ta, không phải là chúng sanh, không phải là mệnh giả,[[23]] không phải là sinh giả, không phải là Nho đồng,[[24]] không phải là tác giả, không phải là con trai, không phải là con gái, không phải giống Hoàng môn,[[25]] không phải tự tại, không phải ngã sở, cũng không phải là những thứ gì khác.

−Cho đến, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới cũng không phải là Ta, không phải là chúng sanh, không phải là mệnh giả, không phải là sinh giả, không phải là Nho đồng, không phải là tác giả, không phải là con trai, không phải là con gái, không phải là giống Hoàng môn, không phải tự tại, không phải ngã sở, cũng không phải là những thứ gì khác như thế.

---

Phần chú giải

[[1]] đạo can kinh (tiếng Phạn Salistambasutra; Hán dịch âm là Xá Lê Sa Đảm Ma kinh): Đạo Can nghĩa là lúa nếp. Đức Phật nhân trông thấy cánh đồng lúa nếp Ngài nói ra lý nhân duyên sinh này.

[[2]] kinh hành: Nơi đặc biệt để sau khi ngồi Thiền, đi đi, lại lại nuôi dưỡng thân thể và trừ khỏi bệnh hoạn. hoặc là nơi để đi đi, lại lại sau bữa ăn cho tiêu thức ăn (cơm, …).

[[3]] Thiện Thệ (Tiếng Phạm: Sugata; Hán dịch âm là Tu già đà): Có nghĩa là đi trong đường chính, đạt tới nơi tốt đẹp. Đấng Giác ngộ dùng Nhất thiết trí làm xe, đi trên đường bát chánh, rảo tới nơi Niết bàn, thị hiện hóa độ chúng sanh nên gọi là Thiện Thệ.

[[4]] Cụ Thọ: Tiếng gọi thông thường, chỉ cho những vị có đầy đủ thọ mệnh thế gian và pháp thân thọ mệnh.

[[5]] bậc kia (Phật)

[[6]] bất tịch tĩnh tướng (không còn có cả hình tướng của tịch tĩnh vắng lặng) Đây là hiển minh nghĩa vi mật (khó thấy, khó biết) của pháp nhân duyên.

[[7]] pháp trụ tính (tính trong pháp của nhân duyên vẫn thường trụ)

[[8]] pháp định tính (tính của mọi pháp quyết định như thế)

[[9]] nhân duyên tương ứng tính (tính cùng nhân duyên ứng hợp nhau)

[[10]] chân như tính (tính của mọi pháp là như thực)

[[11]] vô thác mậu tính (tính chân như phổ biến không sai lầm, thiên lệch)

[[12]] vô biến dị tính (tính chân như không thay đổi sai khác)

[[13]] chân thực tính (tính chân thực)

[[14]] thực tế tính (tính thực tế)

[[15]] bất hư vọng tính (tính không giả dối)

[[16]] bất điên đảo tính (tính không xáo lộn)

[[17]] sáu giới (sáu giới phận)

[[18]] không dứt đoạn: (bất đoạn)

[[19]] không chuyển dời: (bất di)

[[20]] Để ngăn ngừa những ác kiến mê lầm, ngoài sự quán sát nội, ngoại nhân duyên tương ứng trên kia, cần quán sát thêm 5 thứ quán sát này.

[[21]] tương ứng (hợp nhau)

[[22]] danh sắc (tâm, thân)

[[23]] mệnh giả (Thọ giả): Cho rằng cái của Ta (hoặc người) đang có (đang thọ nhận) là thực.

[[24]] Nho đồng (Pàli: Màịava, Màịavaka; Hán dịch âm: Ma nạp bà, Ma nạp phạ ca; 儒): Cũng gọi Thiếu niên, Nhân đồng tử, Tịnh trì. Từ gọi chung các đồng tử hoặc đặc biệt chỉ cho những thiếu niên Bà la môn.

   Theo Thành duy thức luận chưởng trung xu yếu quyển thượng, phần đầu, thì Nho nghĩa là tốt đẹp; Đồng nghĩa là tuổi trẻ, tức chỉ cho thiếu niên tốt đẹp.

[[25]] Hoàng môn (Phạn ngữ: paṇḍaka): 1. Chỉ những quan hoạn mặc áo vàng trong cung cấm của vua.   2. Chỉ chung những kẻ do tật khuyết nam căn hoặc do có bệnh tật, hoặc bị thiến...

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG