Kinh Duyên Sinh & Phần 2

 0
Kinh Duyên Sinh & Phần 2

  • Gì là Vô minh?

−Đối với sáu giới này khởi ra nhất tưởng,[[1]] nhất hợp tưởng;[[2]] Thường tưởng;[[3]] Kiên lao tưởng;[[4]] Bất hoại tưởng;[[5]] An lạc tưởng;[[6]] tưởng là chúng sinh, mệnh giả, sinh giả, dưỡng dục, sĩ phu, nhân,[[7]] Nho đồng, tác giả, ngã, ngã sở v.v... cùng nhiều thứ vô tri[[8]] khác, thế là "vô minh".

−Có vô minh, đối với các cảnh giới khởi ra: tham, sân, si;   Cái đối với cái cảnh giới khởi ra: tham, sân, si ấy, ấy là vô minh duyên hành;   

⁕Cái mà đối với mọi sự thường phân biệt rõ ràng, gọi là "thức";  

⁕Cùng với thức đồng sinh bốn uẩn,[[9]] gọi là danh sắc;   

⁕Y vào các căn của danh sắc, gọi là lục nhập;   

Ba pháp[[10]] hòa hợp gọi là xúc;   

⁕Biết cảm thụ sự xúc chạm ấy, gọi là thụ;  

Tham đắm vào sự cảm thụ ấy, gọi là ái;   

Tăng trưởng sự tham ái ấy, gọi là thủ;   

⁕Từ chỗ chấp thủ ấy sinh ra “năng sinh nghiệp[[11]] gọi là hữu;     

⁕Từ nhân kia[[12]] sinh ra năm uẩn,[[13]] gọi là sinh;  

⁕Sinh ra rồi năm uẩn thành thục, gọi là lão;[[14]]   

⁕Lão rồi năm uẩn diệt hoại, gọi là tử;[[15]]   

⁕Trong khi sắp mất, nội tâm đủ cả tham đắm và nhiệt não, gọi là sầu;[[16]]   

⁕Từ chỗ sầu bi ấy, sinh ra những lời nói, gọi là thán;[[17]] thân của năm thức chịu khổ, gọi là khổ; Tác ý;[[18]] ý thức chịu mọi sự khổ, gọi là ưu;[[19]] Đủ những thứ trên như thế cùng những phiền não tùy thuộc, gọi là não.

─Đen tối nhiều nên gọi là vô minh; Tạo tác, nên gọi là chư hành;[[20]] Phân biệt rõ ràng, nên gọi là thức; Nương dựa nhau, nên gọi là danh sắc; Làm cửa sinh khởi, nên gọi là lục nhập; Xúc chạm nên gọi là xúc; Cảm thụ nên gọi là thụ; Khát khao nên gọi là ái; Chấp lấy, nên gọi là thủ;  Sinh khởi sự có thân sau này[[21]] nên gọi là hữu;  Sinh ra năm uẩn nên gọi là sinh; Năm uẩn thành thục nên gọi là lão; Năm uẩn diệt hoại, nên gọi là tử; Buồn rầu nên gọi là sầu; Than thở nên gọi là thán; Não thân gọi là khổ; Não tâm gọi là ưu; Phiền não nên gọi là não.

─Hơn nữa, không rõ chân tính, điên đảo không biết, gọi là "vô minh". Vì có "vô minh" như thế, thành ra ba thứ hành:[[22]] phúc hành,[[23]] tội hành[[24]] bất động hành.[[25]]

─Từ nơi phúc hành sinh ra phúc hành thức,[[26]] ấy là vô minh duyên hành;

─Từ nơi tội hành, sinh ra tội hành thức,[[27]] ấy thời gọi là hành duyên cho thức;

─Từ nơi bất động hành, sinh ra bất động hành thức,[[28]] ấy thời gọi là thức duyên danh sắc.

─Vì sắc tăng trưởng, từ trong cửa lục nhập thành sự việc, ấy là danh sắc duyên lục nhập.

─Từ lục nhập mà sinh ra sáu thứ tụ tập, xúc chạm, ấy là lục nhập duyên xúc.

─Từ nơi xúc chạm mà sinh ra cái kia, cái kia cảm thụ nhau, ấy thời gọi là xúc duyên thụ.

─Phân biệt rõ ràng sự cảm thụ rồi, mà sinh ra nhiễm ái, đam trước,[[29]] ấy thời gọi là thụ duyên ái.

─Biết rồi mà sinh nhiễm ái, đam trước, không muốn xa lìa sắc đẹp và ở nơi yên vui mà sinh ra ý nguyện hoan lạc, ấy là ái duyên thủ.

─Sinh ra ý nguyện hoan lạc rồi, từ nơi thân, miệng, ý tạo ra hậu hữu nghiệp,[[30]] ấy là thủ duyên hữu.

─Từ nghiệp của hữu kia sẽ sinh ra năm uẩn, ấy là hữu duyên sinh.

─Sinh rồi, năm uẩn kia thành thục và diệt hoại, ấy thời gọi là sinh duyên lão tử.

Thế nên mười hai chi pháp nhân duyên kia, làm nhân lẫn nhau, làm duyên lẫn nhau, không phải thường, không phải vô thường, không phải hữu vi,[[31]]  không phải vô vi,[[32]] không phải là không có nhân, không phải là không có duyên, không phải cảm thụ "hữu nghiệp", không phải là pháp[[33]] hết, không phải là pháp hoại, không phải là pháp diệt; từ vô thỉ đến nay, nó vẫn như dòng nước chảy dốc, không có đoạn tuyệt.

Tuy thế, mười hai chi pháp nhân duyên ấy, làm nhân lẫn nhau, làm duyên lẫn nhau, không phải thường, không phải vô thường, không phải hữu vi, không phải vô vi, không phải là không có nhân, không phải là không có duyên, không phải cảm thụ "hữu nghiệp", không phải là pháp hết, không phải là pháp hoại, không phải là pháp diệt; từ vô thỉ đến nay, nó vẫn như dòng nước chảy dốc, không có đoạn tuyệt.

Nó có bốn chi thường nhiếp thủ mười hai nhân duyên pháp. Bốn chi ấy là gì?

Là: vô minh, ái, nghiệp, thức.

−"Thức", lấy chủng tử tính làm nhân.

−"Nghiệp" lấy điền tính[[34]] làm nhân.

−"Vô minh" và "ái" lấy phiền não tính làm nhân.

Trong này, "nghiệp" và "phiền não", sinh ra "thức" của chủng tử.[[35]] "Nghiệp" thời làm mảnh ruộng cho "thức" của chủng tử, "ái" thời nhuần thấm cho "thức" của chủng tử, "vô minh" thời sinh nở cho "thức" của chủng tử. Nếu không có những duyên ấy, "thức" của chủng tử không thể thành được.

  • Song,

−Nghiệp kia cũng không khởi ra ý niệm: “ta nay làm mảnh ruộng cho "thức" của chủng tử”;  

−Ái cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay làm nhuần thấm cho "thức" của chủng tử";

−Vô minh cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay làm sinh nở cho "thức" của chủng tử";

−"Thức" của chủng tử kia cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay từ mọi duyên ấy sinh ra".

  • Tuy thế, "thức" của chủng tử, y vào nơi ruộng nghiệp và ái kia nhuần thấm, phẩn vô minh sinh nở, vào trong thai mẹ sinh ra mầm danh sắc.

−Mầm danh sắc kia cũng không phải tự tác,[[36]]  cũng không phải tha tác,[[37]] không phải mình và cái khác đều làm ra, không phải tự tại hóa ra, cũng không phải thời biến;   không phải tự tính sinh, không phải là tác giả tạm bợ,[[38]] cũng không phải là không có nhân mà sinh.

−Tuy thế, khi phụ mẫu hòa hợp cùng khi các duyên khác hòa hợp, pháp:[[39]] vô ngã,[[40]] vô ngã sở,[[41]] cũng như hư không. Các huyễn pháp kia, nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, y nơi sinh của nhân duyên kia, vào trong thai mẹ, thời thành tựu được cái "thức", giữ lấy thai mẹ, là cái mầm danh sắc.

  • Như khi sinh ra nhãn thức, nếu đủ năm duyên thời sinh ra được. Năm duyên ấy là gì?

−Là: y vào mắt,[[42]] hình sắc,[[43]] ánh sáng,[[44]] không gian[[45]] và y vào tác ý, nên nhãn thức sinh ra được.   

−Trong này, mắt thời làm nơi nương tựa cho nhãn thức, hình sắc thời làm cảnh cho nhãn thức, ánh sáng thời làm việc hiển hiện, không gian thời làm việc không ngăn che, tác ý thời làm việc tư tưởng.

−Nếu không có các duyên ấy, nhãn thức không sinh được. Nếu khi bên trong sự tiếp nhập của mắt, hoàn toàn đầy đủ, cho đến hình sắc, ánh sáng, không gian, tác ý, cũng hoàn toàn đầy đủ như thế, hết thảy hòa hợp, nhãn thức sinh ra được.

−Song, mắt kia cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay là chỗ nương tựa của nhãn thức", hình sắc cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay làm cảnh cho nhãn thức"; ánh sáng cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay làm việc hiển hiện cho nhãn thức"; không gian cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay làm việc không ngăn che cho nhãn thức"; tác ý cũng không khởi ra ý niệm: "ta nay làm chỗ tư tưởng cho nhãn thức"; nhãn thức kia cũng không khởi ra ý niệm: "ta là từ các duyên ấy mà có".

−Tuy thế, có các duyên ấy nhãn thức mới sinh ra được; cho đến các căn khác, tùy từng loại của nó sẽ biết được nó.

−Như thế, không có chút pháp nào từ đời này di chuyển đến đời khác; dù vậy, nhân và các duyên, được hoàn toàn đầy đủ, thời nghiệp quả[[46]] cũng hiện.

Ví như trong tấm gương sáng hiện ra diện tượng, tuy diện tượng kia không dời gương, nhân và các duyên, được hoàn toàn đầy đủ, nên diện tượng cũng hiện. Như thế, không có chút ít vật gì từ nơi này diệt, sinh sang nơi khác, nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, nên nghiệp quả cũng hiện.

Ví như vầng trăng, vận hành trên đây chừng bốn vạn hai nghìn do tuần, thế mà hình tượng vầng trăng kia hiện trong cái bát nhỏ có nước, vậy vầng trăng kia cũng không phải từ nơi kia di chuyển đến cái bát có nước này. Tuy thế, nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, nên vầng trăng cũng hiện. Như thế, không có chút ít vật gì từ nơi này diệt, sinh sang nơi khác, mà nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, nên nghiệp quả cũng hiện.

Ví như lửa, nhân và các duyên nếu không đầy đủ, thời không cháy được, khi nhân và các duyên đầy đủ, mới có thể cháy được. Như thế, pháp: vô ngã, vô ngã sở cũng như hư không; y vào huyễn pháp kia nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, y nơi sở sinh, vào trong thai mẹ, thời thành tựu được cái thức của chủng tử, nghiệp và phiền não sinh ra mầm danh sắc.

Vậy nên, cần quán sát về sự: nội nhân duyên pháp, duyên tương ứng" như thế!

  • Nên đem năm thứ quán pháp, quán sát nội nhân duyên pháp. Năm thứ ấy là gì?

−Là: không thường còn, không dứt đoạn,[[47]] không chuyển dời,[[48]] từ nhân nhỏ sinh quả lớncùng tương tự với nhân cũ kia.

  • Thế nào là không thường còn?

−Nghĩa là năm uẩn tối hậu của báo thân kia diệt đi, cùng với năm uẩn đang chịu phần sinh ra kia, hai đàng đều khác nhau, vì năm uẩn tối hậu diệt đi, không phải là năm uẩn đang chịu phần sinh ra; báo thân tối hậu kia diệt, năm uẩn cũng diệt, năm uẩn đang chịu phần sinh ra cũng hiện ra được nên gọi là "không thường còn".

  • Thế nào là không dứt đoạn?

−Không phải y vào khi diệt hoại của năm uẩn tối hậu diệt, mà năm uẩn đang chịu phần sinh ra, có được; và cũng không phải là không diệt, báo thân tối hậu kia diệt, năm uẩn cũng diệt, đương trong khi ấy, năm uẩn đang chịu phần sinh ra, nó chỉ như cán cân, cao, thấp một chút, mà sinh ra được, nên gọi là "không dứt đoạn".

  • Thế nào là không chuyển dời?

−Vì, các loài hữu tình, từ nơi không phải là "chúng đồng phận", sinh ra nơi "chúng đồng phận", nên gọi là "không chuyển dời".

  • Thế nào là từ nhân nhỏ, sinh quả lớn?

−Làm nghiệp nhỏ, cảm quả dị thục lớn, nên từ nhân nhỏ mà sinh quả lớn.

  • Thế nào là cùng tương tự với nhân cũ kia?

−Như làm nhân kia, cảm được quả kia, cùng tương tự với nhân kia, nên gọi là "tương tự".

Bởi thế, nên đem năm thứ quán pháp, quán nhân duyên pháp!

  • Tôn giả Xá Lỵ Tử! Nếu có người dùng chính trí, quán sát những pháp của nhân duyên, mà đức Như Lai nói ra, như vô thọ, ly thọ, như thực tính, vô thác mậu tính, vô sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng ngại, vô cảnh giới, tịch tĩnh, vô úy, vô xâm đọat, vô tận, bất tịch tĩnh tướng, bất hữu,[[49]] hư,[[50]] cuồng,[[51]] vô kiên thực,[[52]] như bệnh,[[53]] như ung,[[54]] như tiễn,[[55]] quá thất,[[56]] vô thường,[[57]] khổ, không, vô ngã;[[58]]
  • Vậy:

−Ta trong đời quá khứ có sinh hay là không sinh, mà không phân biệt được bờ cõi của thuở quá khứ?

−Trong đời vị lai sinh ở chốn nào, mà cũng không phân biệt được bờ cõi của thuở vị lai?

− Đây là gì? [[59]]  •Đây lại là thế nào, mà làm ra vật gì?

− Các loài hữu tình này từ đâu lại?  Từ đây diệt đi sẽ sinh vào chốn nào?  Mà cũng không phân biệt được cái "có" của hiện tại.

−Lại diệt những tà kiến[[60]] bất đồng của hàng Sa môn, Bà la môn ở thế  gian, là ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, nhân kiến, hy hữu kiến, cát tường kiến, khai hợp kiến. Biết được rành rẽ, như cây Đa la, đoạn trừ sạch mọi căn rồi, trong đời mai sau, chứng được pháp vô sinh, vô diệt.

  • Tôn giả Xá Lỵ Tử! Nếu có người đầy đủ được "vô sinh pháp nhẫn"như thế, là người phân biệt rõ ràng được nhân duyên pháp ấy, Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn liền thụ ký cho đạo quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Di Lặc nói lời ấy rồi, Cụ Thọ Xá Lỵ Tử cùng hết thảy những người trong thế gian, Thiên, Nhân, A Tu La, Càn Thát Bà, v.v... nghe Đại Bồ Tát Di Lặc nói pháp ấy, đều tín thụ phụng hành.

---

Phần chú giải

[[1]] nhất tưởng (tưởng là nhất thể)

[[2]] nhất hợp tưởng (tưởng là thực thể do các pháp hợp thành)

[[3]] Thường tưởng (tưởng là thường còn vĩnh viễn)

[[4]] Kiên lao tưởng (tưởng là bền chắc)

[[5]] Bất hoại tưởng (tưởng là không hoại diệt)

[[6]] An lạc tưởng (tưởng là được an vui)

[[7]] nhân (người)

[[8]] vô tri (không biết)

[[9]] bốn uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành)

[[10]] Ba pháp (căn, trần, thức)

[[11]] “năng sinh nghiệp" (chủ động trong hành động sinh danh sắc khác)

[[12]]  nhân kia: (nghiệp)

[[13]] năm uẩn (danh sắc)

[[14]] lão (già)

[[15]] tử (chết)

[[16]] sầu (buồn rầu)

[[17]] thán (than thở)

[[18]] Tác ý (khởi ra ý tưởng)

[[19]] ưu (lo)

[[20]] chư hành (mọi hành động)

[[21]] sự có thân sau này (hậu hữu thân)

[[22]] hành (hành động)

[[23]] phúc hành (làm phúc)

[[24]] tội hành (làm tội)

[[25]] bất động hành (tâm thức từ bất động.. chuyển thành động)

[[26]] phúc hành thức (nghiệp thức trong việc làm phúc)

[[27]] tội hành thức (nghiệp thức trong việc làm tội)

[[28]] bất động hành thức (nghiệp thức từ bất động... chuyển thành động)

[[29]] đam trước (mê đắm, ham muốn và dính mắc)

[[30]] hậu hữu nghiệp (nghiệp của sự có thân sau này)

[[31]] hữu vi (có sự tạo tác)

[[32]] vô vi (không có sự tạo tác)

[[33]] pháp (nhân duyên)

[[34]] điền tính (tánh ruộng đất, hay làm chỗ nương tựa cho hạt giống nảy mầm)

[[35]] chủng tử (hạt giống)

[[36]] tự tác (tự mình làm ra)

[[37]] tha tác (cái khác làm ra)

[[38]] tác giả tạm bợ (giả tác giả)

[[39]] pháp (nhân duyên)

[[40]] vô ngã (không có cái Ta)

[[41]] vô ngã sở (không có cái của Ta)

[[42]] mắt (nhãn)

[[43]] hình sắc (sắc)

[[44]] ánh sáng (minh)

[[45]] không gian (không)

[[46]] nghiệp quả (kết quả của nghiệp thức)

[[47]] không dứt đoạn (bất đoạn)

[[48]] không chuyển dời (bất di)

[[49]] bất hữu (không có sự chân thực)

[[50]] (giả dối)

[[51]] cuồng (lừa gạt không thực)

[[52]] vô kiên thực (không bền, thực)

[[53]] như bệnh (như người đau)

[[54]] như ung (như người có nhọt)

[[55]] như tiễn (như bị tên bắn)

[[56]] quá thất (lỗi lầm)

[[57]] vô thường (không thường còn, luôn đổi thay)

[[58]] vô ngã (không có Ta)

[[59]] Đây (hiện tại)

[[60]] tà kiến (thấy biết lệch lạc)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG