Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa & Phần 2

 0
Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa & Phần 2

Phẩm thứ ba: MƯỜI CÔNG ĐỨC

Bấy giờ ngài Đại Trang Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn!  Đức Thế Tôn nói kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa rất cao siêu mầu nhiệm, rất sâu xa chân thật, và rất sâu xa tuyệt vời.

Sở dĩ vì sao?  Trong chúng nơi đây, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, và hàng Tứ chúng, các bộ Thiên, bộ Long, các quỉ thần, v.v... các vị quốc vương, các quan đại thần, và người dân thứ; có các chúng sanh được nghe kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa này, không ai là không phát tâm Bồ Đề, chứng được Đà la ni môn, tam pháp, tứ quả, thì nên biết pháp đó văn lý chân thật không có pháp nào tôn hơn; được tam thế chư Phật gìn giữ, không bị chúng ma quần đạo xâm nhập vào được, không bị hết thảy tà kiến sanh tử làm nát hoại. 

Sở dĩ vì sao? Vì người được nghe một câu thì hay giữ được hết thảy các pháp. Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy thì người đó được lợi ích rất lớn. Vì sao? Vì người đó nếu hay tu hành tất sẽ chóng được thành đạo Vô Thượng Bồ Đề. Còn có những chúng sanh chẳng được nghe kinh nầy, thì nên biết những chúng sanh đó làm mất lợi ích lớn.

Qua vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp quyết chẳng được thành đạo Vô Thượng Bồ Đề. 

Tại vì sao? Vì những người ấy chẳng biết đi thẳng đến đạo Vô Thượng Bồ Đề, lại đi vào đường tắt hiểm trở mắc nhiều tai nạn. 

−Bạch đức Thế Tôn!  Kinh điển nầy là bất khả tư nghì, cúi xin đức Thế Tôn rộng vì đại chúng rủ lòng lành thương, diễn nói những việc rất sâu xa bất khả tư nghì của kinh nầy. 

−Bạch đức Thế Tôn! Kinh điển nầy do từ nơi nào tới? Sẽ đi về nơi nào? Và trụ ở nơi chốn nào?  Mà có vô lượng năng lực bất khả tư nghì như thế?  Khiến cho chúng sanh chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." 

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Đại Trang Nghiêm rằng: "Nầy thiện nam tử!  Hay lắm!  Phải lắm. Đúng thế, đúng thực như lời ông nói.

Nầy thiện nam tử!  Ta nói kinh nầy rất cao siêu mầu nhiệm, rất chân thật sâu xa là tại vì sao?  Là vì muốn cho hết thảy chúng sanh chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.  Người nghe một câu có thể thọ trì được tất cả các pháp; vì các chúng sanh mà làm lợi ích lớn; vì đi trên con đường thẳng lớn, không còn vướng mắc tai nạn gì nữa. 

Nầy thiện nam tử!  Ông hỏi kinh nầy do từ nơi nào mà tới? Sẽ đi về nơi nào? Và trụ ở chốn nào? Vậy ông hãy lắng nghe cho rõ, Ta sẽ nói cho nghe.

Nầy thiện nam tử!  Kinh nầy vốn từ trong nhà chư Phật mà ra, đi đến chỗ hết thảy chúng sanh phát tâm Bồ Đề, và trụ ở nơi các Vị Bồ Tát sở trụ. 

Nầy thiện nam tử!  Kinh nầy đến là như thế, đi là như thế, và trụ là như thế.  Vì vậy cho nên kinh nầy hay có vô lượng năng lực bất khả tư nghì công đức khiến cho chúng sanh chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. 

Nầy thiện nam tử!  Há ông có muốn được nghe kinh nầy lại có mười năng lực bất khả tư nghì công đức chăng?"

Bồ Tát Đại Trang Nghiêm bạch Phật rằng:

−"Bạch đức Thế Tôn!  Con muốn được nghe lắm." 

Đức Phật bảo: "Nầy thiện nam tử!  Kinh nầy:

  • Một là, hay khiến cho các Bồ Tát chưa phát tâm, thì phát tâm Bồ Đề; không có lòng nhân từ, thì khởi ra lòng nhân từ; người hay sát hại, thì khởi ra tâm đại bi; người hay ghen ghét, thì khởi ra tâm tùy hỷ; người tham ái chấp trước, thì khởi ra tâm hỷ xả; người xẻn tham, thì khởi ra tâm bố thí; người kiêu mạn nhiều, thì khởi ra tâm giữ giới; người giận dữ nhiều, thì khởi ra tâm nhẫn nhục; người hay lười biếng, thì khởi ra tâm tinh tấn; người hay tán loạn, thì khởi ra tâm thiền định; với người si mê, thì khởi ra tâm trí huệ; người chưa hay độ người, thì khiến cho phát tâm độ người; người hay làm thập ác, thì khiến cho phát tâm làm thập thiện; người tu pháp hữu vi, thì khiến cho chí cầu đạo vô vi; người tâm có thoái chuyển, thì khiến cho tâm bất thoái; người làm hạnh hữu lậu, thì khiến cho phát tâm vô lậu; người nhiều phiền não, thì khiến cho phát tâm trừ diệt.

Nầy thiện nam tử! Đó là năng lực thứ nhất bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ hai bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy rồi, dù chuyển đọc một lượt, một bài kệ cho đến một câu thì có thể thông đạt trăm nghìn muôn ức nghĩa.Đến vô số kiếp thường hay diễn nói những pháp đã thọ trì.Vì sao? Vì pháp đó là Vô Lượng Nghĩa vậy. 

Nầy thiện nam tử!  Kinh nầy cũng ví như từ một hạt giống mà phát sanh ra trăm nghìn muôn; trong trăm nghìn muôn hạt giống kia, thì mỗi một hạt lại phát sanh ra hàng trăm nghìn muôn nữa.  Cứ như thế dần dần cho đến vô lượng, thì kinh nầy cũng lại như thế.

Từ một pháp sanh ra trăm nghìn nghĩa; trong trăm nghìn nghĩa, thì mỗi một nghĩa lại sanh ra trăm nghìn muôn số, cứ thế dần dần cho đến vô lượng vô biên nghĩa.  Vì vậy, cho nên kinh nầy gọi là Vô Lượng Nghĩa. 

Nầy thiện nam tử!  Đó là năng lực thứ hai bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy.  Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ ba bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy, dù chuyển đọc một lượt, một bài kệ cho đến một câu, thông đạt trăm nghìn muôn ức nghĩa rồi.Tuy có phiền não thì cũng như không có phiền não, ra vào chốn sanh tử không có tư tưởng sợ sệt; đối với chúng sanh thì sanh ra tư tưởng thương xót; đối với nhứt thiết pháp thì được tư tưởng mạnh mẽ; như người tráng sĩ hay mang hay giữ những món nặng nề, người trì kinh nầy cũng lại như thế, hay gánh trọng trách của đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề; hay mang đội chúng sanh ra khỏi đường sanh tử. Tuy chưa độ được mình mà đã hay độ cho người.

Ví như thuyền trưởng, tuy mình mắc bệnh nặng, bốn thể chẳng đều, yên nghỉ ở bờ bên đây; nhưng có thuyền bè bền chắc, và thường sắm những dụng cụ để cung cấp cho mọi người đi sang qua bờ bên kia.  Người trì kinh nầy cũng lại như thế, tuy thân nầy còn vướng mắc mọi nghiệp hữu lậu nơi ngũ đạo; một trăm nghìn tám bệnh nặng nó thường hằng ràng buộc ở bờ bên nầy là: "Vô minh già chết", mà có kinh Đại thừa bền chắc nầy, trang biện Vô Lượng Nghĩa để cứu độ chúng sanh.  Nếu chúng sanh theo đúng lý thuyết mà tu hành, thì được qua khỏi chốn sanh tử. 

Nầy thiện nam tử!  Đó là năng lực thứ ba bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy.  Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ tư bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy dù chuyển đọc một lượt, dù một bài kệ, cho đến một câu thì được tư tưởng mạnh mẽ.Tuy chưa độ mình mà có thể độ cho người khác, và cùng các Bồ Tát để làm thân thuộc.Chư Phật Như Lai thường hướng về người ấy mà diễn nói kinh pháp; người ấy nghe rồi đều hay thọ trì, thuận theo chẳng trái, rồi lại vì người khác mà tùy nghi diễn nói rộng ra. 

Nầy thiện nam tử!  Người đó cũng ví như vị phu nhân của nhà vua mới sanh ra thái tử, dù mới được một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày; dù một tháng, hai tháng, cho đến bảy tháng; dù là một năm, hai năm, cho đến bảy năm.  Tuy còn thơ ấu chẳng hay lãnh trị quốc sự, mà đã được thần dân sùng kính, và cùng với các con vua khác kết làm bằng hữu.

Vua và phu nhân thường nói với nhau là lòng rất mến yêu không chút thiên vị.  Sở dĩ vì sao?  Vì nó hãy còn thơ ấu. 

Nầy thiện nam tử! Người trì kinh nầy cũng lại như thế. Chư Phật là quốc vương, kinh nầy là phu nhân, hòa hợp cùng nhau sanh ra con là Bồ Tát. Nếu Bồ Tát đó được nghe kinh nầy, dù là một câu hay một bài kệ, dù chuyển đọc một lượt, hai lượt; dù là mười lượt, trăm lượt, cho đến muôn ức vạn Hằng hà sa vô lượng vô số. Tuy lại chẳng hay thể nhập vào được chân lý cao siêu, và chẳng hay làm chấn động được ba nghìn đại thiên quốc độ, tiếng phạm như sấm vang, chuyển xe đại pháp; nhưng đã được tất cả bốn chúng, tám bộ kính tin, và cùng các đại Bồ Tát làm quyến thuộc thâm nhập vào pháp bí mật của chư Phật. Những chỗ nên diễn nói ra thì không trái không lỗi, thường được chư Phật hộ niệm, vì kẻ tân học cho nên đem lòng từ ái che chở thêm nhiều.

Nầy thiện nam tử! Đó là năng lực thứ tư bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ năm bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, có người thọ trì, đọc tụng, viết chép kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa rất cao siêu mầu nhiệm nầy, người đó tuy lại bị đủ mọi phiền não ràng buộc, cũng chưa thể xa lìa mọi việc của phàm phu, mà lại hay thị hiện đạo Đại Bồ Đề thêm một ngày cho là một trăm kiếp, trăm kiếp cũng có thể chóng như một ngày, khiến cho các chúng sanh kia vui mừng tin theo.

Nầy thiện nam tử!  Người thiện nam, thiện nữ đó cũng ví như là Long tử mới sanh được bảy ngày, tức là cũng có thể làm cho mây nổi lên và cũng có thể làm cho mưa xuống. 

Nầy thiện nam tử! Đó là năng lực thứ năm bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ sáu bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ mà thọ trì, đọc tụng kinh điển nầy, tuy bị đủ mọi phiền não mà vẫn vì chúng sanh nói pháp, khiến cho họ xa lìa phiền não dứt hết nỗi khổ sanh tử. Chúng sanh nghe rồi tu hành đắc pháp, đắc quả, đắc đạo, cùng với chư Phật Như Lai đều không sai khác.

Ví như con vua tuy còn thơ ấu, nếu khi nhà vua đi tuần du hay khi bị bệnh thì nhà vua ủy thác cho thái tử lãnh trị việc nước.  Thái tử khi ấy y theo mệnh lệnh của vua, theo đúng như pháp truyền lệnh cho các quần thần, bá quan văn võ, đem chánh hóa đi truyền dạy cho nhân dân khắp nước, đều tùy theo đó mà an định.  Cũng như lúc nhà vua cai trị đều không sai khác. 

Người thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh nầy cũng lại như thế, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ.  Người thiện nam, thiện nữ nầy tuy chưa được trụ ở nơi ngôi Sơ địa bất động, nhưng y theo đúng lời Phật dạy dùng để thuyết giáo phô diễn. Chúng sanh nghe rồi một lòng tu hành để đoạn trừ phiền não mà đắc pháp, đắc quả, cho đến đắc đạo. 

Nầy thiện nam tử!  Đó là năng lực thứ sáu bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ bảy bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, được nghe kinh nầy mà vui mừng tin theo, lại hay phát khởi tâm hy hữu, mà thọ trì, đọc tụng, giải nói, viết chép, theo đúng lý thuyết tu hành, phát tâm Bồ Đề khởi ra mọi căn lành, gây ý đại bi muốn cứu độ cho hết thảy chúng sanh khổ não mà chưa được tu hành sáu pháp ba la mật, thì sáu pháp ba la mật tự nhiên hiện ra ở trước, và ở ngay thân nầy được vô sanh pháp nhẫn.Sanh tử phiền não nhứt thời tan hoại, được lên ngôi Thất địa đại Bồ Tát.

Ví như người tráng sĩ trừ dẹp giặc oán cho nhà vua; khi giặc oán kia đã dẹp xong, thì nhà vua rất vui mừng liền đem cả nửa nước mà ban thưởng cho.  Người thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh nầy cũng lại như thế, vì vậy người hành giả rất là mạnh mẽ Lục độ Pháp bảo không phải tìm cầu đâu xa mà tự nhiên đến, giặc oán sanh tử cũng tự nhiên tan biến, mà chứng quả vô sanh pháp nhẫn, nửa nước báu cõi Phật phong thưởng cho được an vui. 

Nầy thiện nam tử! Đó là năng lực thứ bảy bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ tám bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, có người nào hay được nghe kinh nầy, mà kính tin coi như thân Phật đều không có khác. Ham thích kinh nầy mà thọ trì, đọc tụng, viết chép, đầu đội kính mến theo như pháp vâng làm, kiên trì giới hạnh, nhẫn nhục, gồm làm những việc bố thí, phát tâm từ bi sâu rộng. Lại đem kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa cao siêu nầy, vì người diễn nói rộng ra. Nếu những người đến trước mà họ đều chẳng tin là có tội phước ấy, thì đem kinh nầy chỉ bảo cho họ, rồi bày ra các thứ phương tiện khuyến hóa cho họ tin theo. Dùng oai lực của kinh nầy khiến tâm người đó được sáng tỏ mà quay về chánh đạo; khi lòng tin của họ đã phát khởi thì dõng mãnh tinh tấn. Vì vậy người hay được nghe kinh nầy là có uy đức, thế đức, đắc đạo, đắc quả.  

Cho nên người thiện nam, thiện nữ, vì nhờ công đức giáo hoá mà người thiện nam thiện nữ kia ở ngay thân nầy được vô sanh pháp nhẫn, và được đến ngôi thượng địa, cùng với các vị Bồ Tát làm quyến thuộc, chóng được thành tựu chúng sanh; cõi Phật thanh tịnh, và chẳng bao lâu được thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Nầy thiện nam tử! Đó là năng lực thứ tám bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ chín bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, có người được nghe kinh nầy mà vui mừng được điều chưa từng có, rồi thọ trì, đọc tụng, cúng dường, lại vì người khác giải nói phân biệt nghĩa của kinh nầy rộng ra, thì những nghiệp chướng nặng nề xưa kia còn lại, nhất thời liền phải tiêu tan, mà được thanh tịnh. Và lại được biện tài lớn, lần lượt trang nghiêm các pháp ba la mật. Được các môn tam muội: Thủ lăng nghiêm tam muội; và môn Tổng trì được sức cần tinh tấn, chóng được lên ngôi thượng địa, phân thân rải thể khéo léo ở khắp mười phương quốc độ để cứu vớt hết thảy chúng sanh đang bị khổ cực ở trong hai mươi lăm cõi, đều khiến cho được giải thoát.  Vì vậy mà kinh nầy có năng lực như thế. 

Nầy thiện nam tử!  Đó là năng lực thứ chín bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử! 

  • Năng lực thứ mười bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, nếu được nghe kinh nầy mà phát khởi tâm đại hoan hỷ rất hiếm có, tự mình liền thọ trì, đọc tụng, viết chép, cúng dường, theo đúng lý thuyết tu hành. Lại hay khuyên người tại gia, xuất gia thọ trì, đọc tụng, viết chép cúng dường, và giải nói rộng ra, rồi cũng theo đúng lý thuyết tu hành.

Vì đã khiến người khác nhờ năng lực của kinh nầy mà tu hành đắc đạo, là đều do nhờ sức người thiện nam, thiện nữ đó phát khởi từ tâm khuyến hóa, cho nên người thiện nam, thiện nữ ấy ngay thân nầy liền được các môn Đà la ni. Ở chốn phàm phu mà tự nhiên ngay lúc ban đầu hay phát khởi ra sô vố tăng kỳ đại thệ sâu rộng. Lại hay phát tâm cứu độ hết thảy chúng sanh thành tựu đại bi, rộng hay bạt khổ, huân tập nhiều căn lành, làm lợi ích cho hết thảy, mà diễn bày các pháp thanh tịnh để thấm nhuần các chốn khô khan. 

Lại đem những phương pháp đã được này mà ban cho hết thảy chúng sanh được yên vui, rồi dần dần thấy được vượt lên ngôi pháp vân địa, ân đức thấm nhuần khắp cả, lòng từ cứu giúp không bờ bến, tiếp dắt chúng sanh khổ não, khiến cho thâm nhập vào con đường đạo. Vì vậy, người đó chẳng bao lâu được thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 

Nầy thiện nam tử!  Đó là năng lực thứ mười bất khả tư nghì công đức của kinh nầy vậy. 

Nầy thiện nam tử!  Như vậy thì kinh Vô Thượng Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa nầy có sức đại oai thần, không gì là tôn hơn, hay khiến cho những kẻ phàm phu đều được chứng thánh quả, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, được vui tự tại.  Vì vậy mà kinh nầy gọi là Vô Lượng Nghĩa. 

Kinh nầy hay làm cho hết thảy chúng sanh ở ngay nơi mảnh đất phàm phu mà phát sanh nẩy nở ra vô lượng mầm mống các Bồ Tát đạo; khiến cho cây công đức lớn thêm và tươi tốt sum sê. Vì vậy mà kinh nầy gọi là Năng Lực Bất Khả Tư Nghì Công Đức vậy." 

Bấy giờ ngài Đại Trang Nghiêm Bồ Tát và tám vạn vị Bồ Tát Ma Ha Tát đều đồng thanh bạch Phật rằng:

−"Bạch đức Thế Tôn! Như lời Phật dạy: Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa rất cao siêu mầu nhiệm sâu xa, văn lý chân chánh, không gì tôn hơn, được tam thế chư Phật cùng gìn giữ, không có chúng ma quần đạo nào xâm nhập vào được, không bị hết thảy tà kiến, sanh tử làm nát hoại. Vì vậy cho nên kinh nầy mới có mười năng lực bất khả tư nghì công đức vậy. 

Làm vô lượng đại lợi ích cho hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy các vị Bồ Tát đều được Vô Lượng Nghĩa tam muội; hoặc được trăm nghìn môn Đà la ni; hoặc được các ngôi các pháp nhẫn của các Bồ Tát, hoặc được ngôi Duyên giác, A la hán và chứng bốn đạo quả. Đức Thế Tôn rủ lòng từ mẫn vui vì lũ chúng con nói ra pháp đó khiến cho chúng con được pháp lợi lớn thật là thời gian rất kỳ diệu chưa từng có vậy. 

−Bạch đức Thế Tôn!  Lòng từ mẫn và ân đức của ngài, chúng con thật khó có thể báo đáp được." 

Khi nói như thế rồi, lúc bấy giờ cõi tam thiên đại thiên thế giới sáu điệu đều rung động.  Ở trên không trung lại mưa xuống các thứ hoa thơm: Hoa Thiên ưu bát la, hoa Bát đàm ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, v.v... Lại mưa xuống vô số các thứ hương trời, áo báu cõi trời, tràng anh lạc cõi trời, ngọc vô giá cõi trời ở trong hư không dần dần rơi xuống để cúng dường đức Phật và các vị Bồ Tát, đại chúng Thanh văn.  Món ăn cõi trời, bình bát cõi trời, sung mãn rạt rào, trăm vị thơm ngon cõi trời, mỗi khi thấy sắc nghe hương thì tự nhiên no đủ.  Phướn trời, phan trời, tàn lọng cõi trời các đồ âm nhạc vi diệu cõi trời đặt bày ở khắp nơi hòa tấu nhạc trời để cúng dường và khen ngợi đức Phật. 

Lại nữa, Hằng hà sa số các cõi chư Phật ở phương Đông cũng sáu lần rung động, và cũng mưa xuống các thứ hoa trời, hương trời, áo báu cõi trời, tràng anh lạc cõi trời, ngọc vô giá cõi trời, món ăn trăm vị thơm ngon cõi trời. Bình bát cõi trời, mỗi khi thấy sắc nghe hương thì tự nhiên no đủ. Phướn trời, phan trời, tán lọng cõi trời những đồ âm nhạc vi diệu cõi trời và hòa tấu kỹ nhạc cõi trời, để cúng dường và khen ngợi đức Phật kia, cùng các vị Bồ Tát, đại chúng Thanh văn.  Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới cũng đều như thế. 

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Đại Trang Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát và tám vạn vị Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: "Các ông đối với kinh nầy phải nên đem hết lòng cung kính sâu xa, theo đúng như pháp mà tu hành, và khuyến hóa hết thảy làm cho ưa truyền rộng ra, lòng thường siêng năng tinh tấn giữ gìn ngày đêm khiến chúng sanh đều được sự lợi ích của giáo pháp. 

Các ông thật là người đại từ đại bi lập nguyện thệ lực thần thông, kính mến giữ gìn kinh nầy đừng để cho ngừng trệ.  Và về đời mai sau phải lưu hành rộng khắp cả cõi Nam Diêm Phù Đề, khiến cho hết thảy chúng sanh được thấy, được nghe, đọc tụng, viết chép, cúng dường.  Vì những lẽ đó mà khiến các ông chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." 

Bấy giờ ngài Đại Trang Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát cùng với tám vạn vị Bồ Tát Ma Ha Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Phật đầu mặt lễ dưới chân Phật, rồi nhiễu trăm nghìn vòng, và quỳ xuống trước Phật đều đồng thanh bạch rằng:

−"Bạch đức Thế Tôn!  Chúng con rất lấy làm vui mừng, đức Thế Tôn đã rủ lòng lành thương, vì chúng con mà nói kinh Đại Thừa Vô Lương Nghĩa rất cao siêu mầu nhiệm nầy, chúng con xin cung kính tin theo lời Phật dạy.  Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng con sẽ truyền bá kinh nầy làm cho lan rộng khắp nơi, đều khiến cho ai nấy thọ trì, đọc tụng, viết chép, cúng dường.  Cúi xin đức Thế Tôn đừng đem lòng buồn lo, chúng con sẽ dùng nguyện lực khắp khiến cho ai nấy đều được nhờ oai thần lực của kinh điển nầy vậy." 

Khi ấy đức Phật khen rằng: "Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các thiện nam tử! Các ông ngày nay thật là Phật tử chơn chánh, lòng đại từ đại bi sâu xa của các ông hay bạt khổ cứu ách, là ruộng phước tốt cho hết thảy chúng sanh, rộng vì hết thảy. Làm người dẫn đường tốt, làm nơi nương tựa lớn cho hết thảy chúng sanh; làm đại thí chủ cho hết thảy chúng sanh, thường đem lợi ích của giáo pháp rộng ban cho hết thảy." 

Khi đức Phật nói kinh nầy xong, thì hết thảy đại chúng trong pháp hội đều vui mừng thọ trì, rồi làm lễ Phật mà xin lui. 

 

Nguyện đem công đức này  

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh     

Đều trọn thành Phật đạo.

 

HẾT

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 2
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG