Vi Diệu Pháp Bộ Pháp Trụ P1 Mẫu Đề
Bộ Dhammasaṅgaṇi hay bộ pháp tụ là một trong bảy bộ Abhidhamma (Vi diệu pháp), đã được Cố Hòa Thượng Tịnh Sự phiên dịch từ bản Thái Ngữ. Công trình phiên dịch này chưa được tu chỉnh thì Hòa Thượng đã tịch.

Vi Diệu Pháp – Bộ Pháp Trụ
Dịch giả: Tịnh Sự (Santakicca)
***
Lời Giới Thiệu (Abhidhammatthasangaha)
Dhammasangani là Bộ sơ khởi của Tạng Abhidhamma, dung chứa các mātikā, là căn bản cho các bộ Abhidhamma kế tiếp, nương tựa vào đó mà triển khai dưới hình thức phân tích, lý luận ra những pháp môn khác.
Trước đây hòa thượng Tịnh Sự đã dịch từ bản Thái ngữ ra Việt ngữ, nhưng chưa được in thành sách thì hòa thượng đã tịch.
Tôi vẫn lưu tâm đến vấn đề này từ lâu, nhưng vì bận nhiều Phật sự, lại chưa gặp cơ hội thuận tiện để xúc tiến cho hoàn chỉnh Tạng Abhidhamma của hòa thượng đang còn dang dở.
Nay nhân dịp Ðại Hội Phật Giáo Kỳ II, Nhà nước cho lập thêm Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, đồng thời có các cư sĩ và chư Tăng đệ tử của Hòa Thượng đến yêu cầu tôi giúp đỡ cho việc ấn hành Tạng Abhidhamma, để hoài bão của Hòa Thượng được thành tựu viên mãn.
Tôi rất hoan hỷ, nên nhận lời và cho mời ngay các vị Sư đệ tử của Hoà Thượng Ðến chùa Nam Tông, đề nghị các Sư tu chỉnh bản dịch của Hòa Thượng cho kỹ lưỡng, tôi sẽ xin giấy phép ấn hành.
Các vị ấy hưởng ứng lời kêu gọi của tôi, nên đã tích cực tu chỉnh Bộ Dhammasangani được hoàn thành tương đối khả quan, và chỉ trong thời gian ba tháng an cư kiết hạ năm Mậu Thìn.
Chúng tôi rất hoan hỷ trước tinh thần đoàn kết và thiện chí hộ trì Giáo Pháp của các vị ấy. Vậy tôi nhân danh Tăng Trưởng hệ phái Nam Tông Việt Nam, xin trang trọng giới thiệu dịch phẩm Dhammasangani này đến toàn thể Chư Tăng cùng chư Phật Tử trong và ngoài nước, nên nghiên cứu học hỏi, đọc tụng để mở mang kiến thức, hầu thấu hiểu rõ Giáo Lý tinh hoa của Phật Giáo.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
Nam Tông Tự, ngày 26-10-1988 (PL. 2532)
Tăng Trưởng Hệ Phái Nam Tông Việt Nam.
Hòa Thượng Siêu Việt.
LỜI NÓI ÐẦU
Bộ Dhammasaṅgaṇi được tu chỉnh hoàn tất trong thời gian ba tháng, kể từ 16/6 đến 15/9 ÂL, năm Mậu Thìn.
Bộ Dhammasaṅgaṇi hay bộ pháp tụ là một trong bảy bộ Abhidhamma (Vi diệu pháp), đã được Cố Hòa Thượng Tịnh Sự phiên dịch từ bản Thái Ngữ. Công trình phiên dịch này chưa được tu chỉnh thì Hòa Thượng đã tịch.
Thời gian gần đây, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã quan tâm đến việc nghiên cứu Giáo lý Tam Tạng, nhận thấy Luận-tạng pāli là tinh hoa của đạo Phật, chưa được phiên dịch hoàn chỉnh, nên Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh có đề nghị Chư Tăng Hệ Phái Nam Tông tu chỉnh Tạng Vi. Diệu Pháp đã được Cố Hòa Thượng Tịnh Sự phiên dịch. Hòa Thượng Tăng Trưởng đã nhóm họp Chư Tăng Nam Tông, bàn về vấn đề này, cuối cùng Chư Tăng nhất trí giao trách nhiệm cho các đệ tử của Cố Hòa Thượng, tu chỉnh Tạng Vi Diệu Pháp.
Chúng tôi vẫn y cứ vào bản dịch của Cố Hòa Thượng, chỉ tu chỉnh thôi. Gọi là “tu”, thì chúng tôi đã bổ túc thêm phần lược đồ, chú thích các từ ngữ khó hiểu, từ vựng Pāli-Việt cuối Tạng và mục lục; gọi là “Chỉnh”, thì chúng tôi đã sữa văn theo nguyên bản Pāli, và chữa những từ ngữ trước kia văn Thái, văn Hán mà tối nghĩa, cầu kỳ, không được sát với Pāli. Thí dụ như: Những câu hỏi mở đầu: -“Katamo tasmiṃ samaye phasso hoti?”, bản cũ dịch là: -“Xúc trong khi có ra sao?” chúng tôi sửa lại: “Thế nào là xúc trong khi ấy?”, hoặc như: – “Katamantaṃ rūpaṃ cakkhāyatanam?”, bản cũ dịch là: – “Sắc mà gọi là nhãn xứ là thế nào”, chúng tôi sữa lại: “sắc nhãn xứ ấy là thế nào?”, những từ ngữ như mahābhūpam, trước dịch là: – “Sắc tứ đại sung”, chúng tôi sữa lại là: – “sắc đại hiển” v.v…
Việc làm tu chỉnh này, đối với chúng tôi là cả một vấn đề. Thật ra, chúng tôi chưa dám nghĩ đến việc làm này, bởi:
– Tự lượng tài trí của mình còn thiển cận.
– Sợ dư luận phê phán là đệ tử sao dám sửa kinh sách của thầy tổ đã dịch.
– Sợ những kẻ “Làm Dở Chê Vụng”.
Nhưng này được giáo hội khuyến khích và được sự nâng đỡ của Hòa Thượng Tăng Trưởng, chúng tôi đành lãnh trách nhiệm, không dám từ nan, do xét thấy:
– Vì mục đích duy trì của Giáo Pháp của Bậc Ðạo Sư.
– Vì lợi ích cho Giáo Hội, đáp ứng nhu cầu tài liệu nghiên cứu Phật Pháp.
– Ðể làm rạng rỡ sự nghiệp đạo Pháp của thầy Tổ.
– Ðể tạo thiện duyên trí tuệ của mình.
Do xét thấy như thế, nên chúng tôi mạo muội lãnh trách nhiệm tu chỉnh Tạng Vi Diệu Pháp.
Tu chỉnh xong bộ Dhammasaṅgaṇi (Pháp Tụ) này, chúng tôi vô cùng phấn khởi, nghĩ rằng mình đã thực hiện được một thiện sự có lợi ích chung.
Tuy vậy, chúng tôi cũng không khỏi áy náy trong những khuyết điểm dĩ nhiên phải có. Cúi mong các bậc tôn đức và những học giả uyên thâm xa gần chỉ dạy, bổ túc thêm cho chúng tôi những điểm sai sót.
Chúng tôi xin chân thành tri ân Chư Ðại Ðức Tăng các chùa: Nam Tông, Bửu Long, Giác Quang, Siêu Lý, Thiền Quang … đã tận tình giúp đỡ, cho mượn tư liệu tham cứu.
Chúng tôi thành thật tán dương công hạnh và tinh thần hộ pháp của các cư sĩ, đã ủng hộ chúng tôi về nhu cầu vật chất trong thời gian tiến hành thiện sự này.
Cầu mong phước báo hằng gia tăng đến quý vị ấy.
Nguyện cho Phật pháp được thạnh hành.
BAN TU CHỈNH
Nguyên Thủy Tự,
ngày 15-9-ÂL, năm Mậu Thìn.
PL. 2532 (TL. 1988).
LỜI TỰA
Abhidhammapiṭaka (Tạng A-Tỳ-Ðàm) dịch là Tạng Vô-Tỷ-Pháp, là một trong ba Tạng Giáo Lý của Phật Giáo.
Tạng Abhidhamma đặc thù hơn tạng Suttanta (kinh) và Tạng Vinaya (Luật) trên phương diện nghiõa lý, trình bày pháp chơn tướng bản thể (Sabhāva-dhamma), vì ý nghĩa cao siêu nhặt nhiệm, nên có chỗ dịch là Vi Diêu Pháp.
Tạng Abhidhamma có bảy bộ:
1- Dhammasaṅgaṇi (Bộ Pháp Tụ)
2- Vibhaṅga (Bộ Phân Tích)
3- Dhātukathā (Bộ Chất Ngữ)
4- Puggalapaññatti (Bộ Nhơn Chế Ðịnh)
5- Kathāvatthu (Bộ Ngữ Tông)
6- Yamaka (Bộ Song Ðối)
7- Paṭṭhāna (Bộ Vị Trí)
Như vậy bộ Dhammasaṅgaṇi (Pháp Tụ) là bộ khởi đầu; qui tụ những mẫu đề chính yếu (mātikā) của Tạng Abhid-hamma.
Bộ Dhammasaṅgaṇi được Ðức Phật thuyết trọn mười hai ngày, trong thời gian ba tháng an cư tại Cung Ðạo Lợi (tāvatiṃsa) gồm có 1300 pháp uẩn (Dhammakhandha), 987 đoạn (pabba), bốn chương (kaṇḍa):
a- Cittupādakaṇḍaṃ – Chương tâm sanh
b- Rūpakaṇḍaṃ – Chương sắc
c- Nikkhepakaṇḍaṃ – Chương toát yếu
d- Atthuddhārakaṇḍaṃ – Chương trích yếu
Bộ Dhammasaṅgaṇi, nội dung xoay chuyển quanh ba loại mẫu đề (mātikā) là:
– Mẫu đề tam: – Tikamātikā
– Mẫu đề nhị: – Dukamātika
– Mẫu đề kinh: – Suttantamātikā.
Mẫu đề tam có hai mươi hai đề tài, gồm sáu mươi sáu câu, như đề thiện (kusalatika) gồm: – Các pháp thiện (kusalādhammā) – các pháp bất thiện (akusalā dhammā) – các pháp vô ký (Abyākatā dhammā)… Như vậy mỗi đề có ba câu, nên hai mươi hai đề có sáu mươi sáu câu.
Mẫu đề nhị có một trăm đại đề, gồm hai trăm tiểu đề, như đề nhân (hetuduka) gồm: – Các pháp nhân (hetū dhammā) – Các pháp phi nhân (no hetū dhammā) … Như vạäy mỗi đại đề có hai tiểu đề, nên một trăm đại đề có hai trăm tiểu đề.
Mẫu đề kinh có bốn mươi hai đầu đề, gồm tám mươi bốn câu. Mẫu đề này, mỗi đề cũng nói lên hai khía cạnh, nhưng không cần đối nhau, chỉ nói từng đôi pháp theo ý nghĩa kinh tạng, như đề phần minh (Vijjkābhāgīduka) có hai câu là: – các pháp phần minh (Vijjkābhāgino dhammā) và – Các pháp phần vô minh (Avijjābhāgino dhammā)…
Khi nêu lên một đề pháp nào trong mỗi đại tiền đề, Bộ Dhammasaṅgaṇi đã trình bày chi pháp của đề pháp đó. Ðiểm đặc sắc khác của Bộ Dhammasaṅgaṇi là định nghĩa làm sáng tỏ tâm, sở hữu tâm, sắc pháp. Ðặc điểm này đã gây hứng thú và lợi ích cho những học giả nghiên cứu.
Về hình thức, Bộ Dhammasaṅgaṇi dẫn giải theo cách vấn đáp, nghĩa là có một câu hỏi đưa ra thì có một câu giải đáp liền đó. Ðặc điểm này cũng giúp nhiều lợi ích, do có sự nhấn mạnh mỗi vấn đề, nên dễ chú ý, dễ nắm lấy ý nghĩa.
Như vậy bộ Dhammasaṅgaṇi là một Bộ Luận có giá trị then chốt, là chìa khóa để mở cửa kho tàn vô tỷ, không thể không nắm căn bản Bộ Pháp Tụ này mà nghiên cứu dễ dàng các Bộ luận khác; một cơ sở mà các học giả nghiên cứu Tạng Abhidhamma phải đứng trên đó.
Bộ Dhammasaṅgaṇicũng cũng có thể là Bộ sách làm cơ sở cho Pháp môn Thiền Quán, là một cẩm nan cho các hành giả tu tuệ, muốn thấu đáo tinh tường đề mục tu tập như: – Danh sắc, ngủ uẩn, trạng thái tâm, sở hữu tâm, sắc pháp …
Chính Bộ Dhammasaṅgaṇi này giải rõ các vấn đề.
Chùa Siêu Lý, ngày 1-9-1975.
Hòa Thượng TỊNH SỰ SANTAKICCO.
Mẫu Ðề (Mātikā) (1) (Abhidhammatthasangaha)
HAI MƯƠI HAI ÐẦU ÐỀ TAM (BĀVĪSATI TIKAMĀTIKĀ) (2)
[1] – Các pháp thiện, các pháp bất thiện, các pháp vô ký.
– Các pháp tương ưng lạc thọ, các pháp tương ưng khổ thọ, các pháp tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
– Các pháp dị thục, các pháp dị thục nhân, các pháp phi dị thục phi dị thục nhân.
– Các pháp thành do thủ cảnh thủ, các pháp phi thành do thủ mà cảnh thủ, các pháp phi thành do thủ và phi cảnh thủ.
– Các pháp phiền toái cảnh phiền não, các pháp phi phiền toái mà cảnh phiền não, các pháp phi phiền toái và phi cảnh phiền não.
– Các pháp hữu tầm hữu tứ, các pháp vô tầm hữu tứ, các pháp vô tầm vô tứ.
– Các pháp câu hành hỷ, các pháp câu hành lạc, các pháp câu hành xả.
– Các pháp đáng do tri kiến đoạn trừ (3), các pháp đáng do tu tiến (4) đoạn trừ, các pháp không đáng tri kiến, không đáng tu tiến đoạn trừ.
– Các pháp hữu nhân đáng do tri kiến đoạn trừ, các pháp hữu nhân đáng do tu tiến đoạn trừ, các pháp hữu nhân đáng do tri kiến tu tiến đoạn trừ.
– Các pháp nhân đến tích tập, các pháp nhân đến tịch diệt, các pháp phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
– Các pháp hữu học, các pháp vô học, các pháp phi hữu học phi vô học.
– Các pháp hy thiểu, các pháp đáo đại, các pháp vô lượng.
– Các pháp có cảnh hy thiểu, các pháp có cảnh đáo đại, các pháp có cảnh vô lượng.
– Các pháp ty hạ, các pháp trung bình, các pháp tinh lương.
– Các pháp cố định (5) phần tà, các pháp cố định phần chánh (6) các pháp phi cố định (7).
– Các pháp có đạo là cảnh, các pháp có đạo là nhân, các pháp có đạo là trưởng.
– Các pháp hiện sanh, các pháp vị sanh, các pháp chuẩn sanh.
– Các pháp quá khứ, các pháp vị lai, các pháp hiện tại.
– Các pháp có cảnh quá khứ, các pháp có cảnh vị lai, các pháp có cảnh hiện tại.
– Các pháp nội phần, các pháp ngoại phần, các pháp nội ngoại phần.
– Các pháp có cảnh nội phần, các pháp có cảnh ngoại phần, các pháp có cảnh nội ngoại phần.
– Các pháp hữu kiến hữu đối chiếu, các pháp vô kiến hữu đối chiếu, các pháp vô kiến vô đối chiếu.
DỨT HAI MƯƠI HAI ÐẦU ÐỀ TAM
MỘT TRĂM ÐẦU ÐỀ NHỊ (DUKAMĀTIKĀ) (8)
PHẦN TỤ NHÂN (Hetugocchakaṃ) (9)
[2] – Các pháp nhân, các pháp phi nhân.
– Các pháp hữu nhân, các pháp vô nhân.
– Các pháp tương ưng nhân, các pháp bất tương nhân.
– Các pháp nhân và hữu nhân, các pháp hữu nhân mà phi nhân.
– Các pháp nhân và tương ưng nhân, các pháp tương ưng nhân mà phi nhân.
– Các pháp phi nhân mà hữu nhân, các pháp phi nhân và vô nhân.
DỨT PHẦN TỤ NHÂN
PHẦN NHỊ ÐỀ TIỂU ÐỈNH (Cūḷantaraduka) (10)
[3] – Các pháp hữu duyên, các pháp vô duyên.
– Các pháp hữu vi, các pháp vô vi.
– Các pháp hữu kiến, các pháp vô kiến.
– Các pháp hữu đối chiếu, các pháp vô đối chiếu.
– Các pháp sắc, các pháp phi sắc.
– Các pháp hiệp thế, các pháp siêu thế.
– Các pháp có phần đáng bị biết, các pháp có phần không đáng bị biết.
DỨT PHẦN NHỊ ÐỀ TIỂU ÐỈNH
PHẦN TỤ LẬU (Āsavagocchakaṃ) (11)
[4] – Các pháp lậu, các pháp phi lậu.
– Các pháp có cảnh lậu, các pháp phi cảnh lậu.
– Các pháp tương ưng lậu, các pháp bất tương ưng lậu.
– Các pháp lậu và cảnh lậu, các pháp tương ưng lậu mà phi lậu.
– Các pháp lậu và tương ưng lậu, các pháp tương ưng lậu mà phi lậu.
– Các pháp bất tương ưng lậu mà cảnh lậu, các pháp bất tương ưng lậu và phi cảnh lậu.
DỨT PHẦN TỤ LẬU
PHẦN TỤ TRIỀN (Saññogocchakaṃ) (12)
[5] – Các pháp triền, các pháp phi triền.
– Các pháp cảnh triền, các pháp phi cảnh triền.
– Các pháp tương ưng triền, các pháp bất tương ưng triền.
– Các pháp triền và cảnh triền, các pháp cảnh triền mà phi triền.
– Các pháp triền và tương ưng triền, các pháp tương ưng triền mà phi triền.
– Các pháp bất tương ưng triền mà cảnh triền, các pháp bất tương ưng triền mà phi cảnh triền.
DỨT PHẦN TỤ TRIỀN
PHẦN TỤ PHƯỢC (Ganthagocchakaṃ) (13)
[9] – Các pháp phược, các pháp phi phược.
– Các pháp cảnh phược, các pháp phi cảnh phược.
– Các pháp tương ưng phược, các pháp bất tương ưng phược.
– Các pháp phược và cảnh phược, các pháp cảnh cái mà phi phược.
– Các pháp phược và tương ưng phược, các pháp tương ưng phược mà phi phược.
– Các pháp bất tương ưng phược mà cảnh phược, các pháp bất tương ưng phược và phi cảnh phược.
DỨT PHẦN TỤ PHƯỢC
PHẦN TỤ BỘC (Oghagocchakaṃ) (14)
[7] – Các pháp bộc, các pháp phi bộc.
– Các pháp cảnh bộc, các pháp phi cảnh bộc.
– Các pháp tương ưng bộc, các pháp bất tương ưng bộc.
– Các pháp bộc và cảnh bộc, các pháp cảnh bộc mà phi bộc.
– Các pháp bộc và tương ưng bộc, các pháp tương ưng bộc mà phi bộc.
– Các pháp bất tương ưng bộc mà cảnh bộc, các pháp bất tương ưng bộc và phi cảnh bộc.
DỨT PHẦN TỤ BỘC
PHẦN TỤ PHỐI (Yogagocchakaṃ) (15)
[8] – Các pháp phối, các pháp phi phối.
– Các pháp cảnh phối, các pháp phi cảnh phối.
– Các pháp tương ưng phối, các pháp bất tương ưng phối.
– Các pháp phối và cảnh phối, các pháp cảnh phối mà phi phối.
– Các pháp phối và tương ưng phối, các pháp tương ưng phối mà phi phối.
– Các pháp bất tương ưng phối mà cảnh phối, các pháp bất tương ưng phối và phi cảnh phối.
DỨT PHẦN TỤ PHỐI
PHẦN TỤ CÁI (Nīvaraṇagocchakaṃ) (16)
[9] – Các pháp cái, các pháp phi cái.
– Các pháp cảnh cái, các pháp phi cảnh cái.
– Các pháp tương ưng cái, các pháp bất tương ưng cái.
– Các pháp cái và cảnh cái, các pháp cảnh cái mà phi cái.
– Các pháp cái và tương ưng cái, các pháp tương ưng cái mà phi cái.
– Các pháp bất tương ưng cái mà cảnh cái, các pháp bất tương ưng cái và phi cảnh cái.
DỨT PHẦN TỤ CÁI
PHẦN TỤ KHINH THỊ (Parāmāsagocchakaṃ) (17)
[10] – Các pháp khinh thị, các pháp phi khinh thị.
– Các pháp cảnh khinh thị, các pháp phi cảnh khinh thị.
– Các pháp tương ưng khinh thị, các pháp bất tương ưng khinh thị.
– Các pháp khinh thị và cảnh khinh thị, các pháp cảnh khinh thị mà phi khinh thị.
– Các pháp bất tương ưng khinh thị mà cảnh khinh thị, các pháp bất tương ưng khinh thị và phi cảnh khinh thị.
DỨT PHẦN TỤ KHINH THỊ
PHẦN NHỊ ÐỀ ÐẠI ÐỈNH (Mahantaradukaṃ) (18)
[11] – Các pháp hữu cảnh, các pháp vô cảnh.
– Các pháp tâm, các pháp phi tâm.
– Các pháp sở hữu tâm, các pháp phi sở hữu tâm.
– Các pháp tương ưng tâm, các pháp bất tương ưng tâm.
– Các pháp hòa với tâm, các pháp phi hòa với tâm.
– Các pháp có tâm sở sanh, các pháp phi tâm sở sanh.
– Các pháp đồng hiện hữu với tâm, các pháp phi đồng hiện hữu với tâm.
– Các pháp tùy chuyển với tâm, các pháp phi tùy chuyển với tâm.
– Các pháp hòa sở sanh với tâm, các pháp phi hòa sở sanh với tâm.
– Các pháp hòa sở sanh đồng hiện hữu với tâm, các pháp phi hòa sở sanh đồng hiện hữu với tâm.
– Các pháp hòa sở sanh tùy chuyên với tâm, các pháp phi hòa sở sanh tùy chuyên với tâm.
– Các pháp nội phần, các pháp ngoại phần.
– Các pháp y sinh, các pháp phi y sinh.
– Các pháp thành do thủ, các pháp phi thành do thủ.
DỨT PHẦN NHỊ ÐỀ ÐẠI ÐỈNH
PHẦN TỤ THỦ (Upādānagocchakaṃ) (19)
[12] – Các pháp thủ, các pháp phi thủ.
– Các pháp cảnh thủ, các pháp phi cảnh thủ
– Các pháp tương ưng thủ, các pháp bất tương ưng thủ.
– Các pháp thủ và cảnh thủ, các pháp cảnh thủ mà phi thủ.
– Các pháp thủ và tương ưng thủ, các pháp tương ưng thủ mà phi thủ.
– Các pháp bất tương ưng thủ mà cảnh thủ,các pháp bất tương ưng thủ và phi cảnh thủ.
DỨT PHẦN TỤ THỦ
PHẦN TỤ PHIỀN NÃO (Kilesagocchakaṃ) (20)
[13 – Các pháp phiền não, các pháp phi phiền não.
– Các pháp cảnh phiền não, các pháp phi cảnh phiền não.
– Các pháp phiền toái, các pháp phi phiền toái.
– Các pháp tương ưng phiền não, các pháp bất tương ưng phiền não.
– Các pháp phiền não và cảnh phiền não, các pháp cảnh phiền não mà phi phiền não.
– Các pháp phiền não và phiền toái, các pháp phiền toái mà phi phiền não.
– Các pháp phiền não và tương ưng phiền não, các pháp tương ưng phiền não mà phi phiền não.
– Các pháp bất tương ưng phiền não mà cảnh phiền não, các pháp bất tương ưng phiền não và phi cảnh phiền não.
DỨT PHẦN TỤ PHIỀN NÃO
PHẦN NHỊ ÐỀ YÊU BỐI (Piṭṭhidukaṃ) (21)
[14 ] – Các pháp do tri kiến đoạn trừ, các pháp không đáng do tri kiến đoạn trừ.
– Các pháp đáng do tu tiến đoạn trừ, các pháp không đáng do tu tiến đoạn trừ.
– Các pháp hữu nhân đáng do tri kiến đoạn trừ, các pháp phi hữu nhân đáng do tri kiến đoạn trừ.
– Các pháp hữu nhân đáng do tu tiến đoạn trừ, các pháp phi hữu nhân đáng do tu tiến đoạn trừ.
– Các pháp hữu tầm, các pháp vô tầm.
– Các pháp hữu tứ, các pháp vô tứ.
– Các pháp hữu hỷ, các pháp vô hỷ.
– Các pháp câu hành hỷ, các pháp phi câu hành hỷ.
– Các pháp câu hành lạc, các pháp phi câu hành lạc.
– Các pháp câu hành xả, các pháp phi câu hành xả.
– Các pháp dục giới, các pháp phi dục giới.
– Các pháp sắc giới, các pháp phi sắc giới.
– Các pháp vô sắc giới, các pháp phi vô sắc giới.
– Các pháp hệ thuộc, các pháp phi hệ thuộc.
– Các pháp dẫn xuất, các pháp phi dẫn xuất.
– Các pháp cố định, các pháp phi cố định.
– Các pháp hữu thượng, các pháp vô thượng.
– Các pháp hữu tranh y, các pháp vô tranh y.
DỨT NHỊ ÐỀ YÊU BỐI
DỨT MẪU ÐỀ THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhamma mātikā) (22)
PHẦN MẪU ÐỀ THEO KINH (Suttantamātikā) (23)
[15] – Các pháp phần minh, các pháp phần vô minh.
– Các pháp ví dụ điển chớp, các pháp ví dụ sấm sét.
– Các pháp ngu nhân, các pháp hiền trí.
– Các pháp hắc, các pháp bạch.
– Các pháp viêm, các pháp phi viêm.
– Các pháp định danh, các pháp cách thức định danh.
– Các pháp ngôn ngữ, các pháp cách thức ngôn ngữ.
– Các pháp chế định, các pháp cách thức chế định.
– Danh và sắc. Vô minh và hữu ái. Hữu kiến và phi hữu kiến.
– Thường kiến và đoạn kiến.
– Hữu biên kiến và vô biên kiến.
– Hữu tiền kiến và hữu hậu kiến.
– Vô tàm và vô úy
– Sự khó dạy và có bạn ác.
– Sự dễ dạy và có bạn lành.
– Thiện xão về tội và thiện xão về xuất tội.
– Thiện xão về nhập định và thiện xão về xuất định.
– Thiện xão về giới, thiện xão về tác ý.
– Thiện xão về xứ, và thiện xão về y tương sinh.
– Thiện xão về vị trí và thiện xão về phi vị trí.
– Chánh trực và nhu thuận.
– Nhẫn nại và nghiêm tịnh.
– Cam ngôn và tiếp đãi.
– Không phòng hộ môn quyền và không tiết độ vật thực.
– Phòng hộ môn quyền và tiết độ vật thực.
– Thất niệm và không tỉnh giác.
– Niệm và tỉnh giác.
– Giác sát lực và tu tiến lực.
– Chỉ tịnh và quán minh.
– Chỉ tịnh ấn chứng và chiếu cố ấn chứng.
– Chiếu cố và bất phóng dật.
– Giới lụy và kiến lụy.
– Giới mãn túc và kiến mãn túc.
– Giới tịnh và kiến tịnh.
– Có bậc kiến tịnh và đối với bậc kiến tịnh như thế có sự tinh cần.
– Người bi động trong những sự kiện đáng bi động và đối với người bi động có sự khéo tinh cần.
– Thái độ không tri túc thiện pháp và thái độ không thối thất tinh cần.
– Minh và giải thoát.
– Trí đoạn tận và trí vô sanh.
DỨT MẪU ÐỀ THEO KINH
Chú thích:
(1) Mātikā: mẩu đề, có chú giải rằng: “mātāviyā timātikā”. Pháp như mẹ gọi là mẩu đề. Tức là pháp tiên đề gồm nhiều phần chi tiết, gốc như pháp gốc hay gốc mẹ.
(2) Tikamātikā – Ðầu đề tam. Phần mẩu đề, trong đó mỗi đề tài gồm ba câu pháp.
(3) Trí tuệ Tu Ðà Hườn Ðạo.
(4) Trí tuệ Tu Ðà Hàm, Trí tuệ A Na Hàm Ðạo và Trí tuệ A La Hán Ðạo.
(5) Pháp tà cho quả nhất định.
(6) Các pháp chánh chắc chắn phải cho quả.
(7) Các pháp không chắc chắn phải kết quả hay không.
(8) Dukamātikā. Mẩu đề nhị. Phần mẩu đề trong đó mỗi đề tài gồm hai câu pháp.
(9) Hetugoccchakam – tiếng Gocchaka nghĩa là dính lại, liên kết. Tụ nhân tức là phần liên kết lại nhiều đề tài, thành nhóm liên quan đến pháp nhân tương ứng.
(10) Cūḷantaradukaṃ – Nhị đề tiểu đỉnh là phần mẩu đề, gom những cập đề tài đôi nhau, ở đây những đề tài phần nầy chỉ đề cập đến những pháp tổng quát trong chân đề, nên hiểu phần này không gọi là Tụ (Gocchaka) vì các đề tài không liên kết cùng một khía cạnh.
(11) Āsavagocchakaṃ – Tụ lậu tức là phần gom các đề tài liên kết nhau nói chung vấn đề lậu hoặc.
(12) Saññojanagocchakaṃ – Tụ triền. Các đề tài liên kết nhau nói chung quanh vấn đề pháp triền.
(13) Ganthagocchakaṃ- Tụ bộc. Gồm các đề tài liên kết nhau nói chung vấn đề pháp bộc.
(14) Oghagocchakaṃ – Tụ bộc. Gồm các đề tài liên kết nhau nói chung quanh vấn đề pháp bộc.
(15) Yogagocchakaṃ – Tụ phối. Gồm các đề tài liên kết nhau nói chung quanh vấn đề pháp phối.
(16) Nīvaraṇagoccchakaṃ – Tụ cái. Gồm các đề tài liên kết nhau nói chung quanh vấn đề pháp cái.
(17) Pārāmāsagocchakaṃ- Tụ khinh thị, gồm các đề tài kiên kết nhau nói chung vấn đề pháp khinh thị (tà kiến).
(18) Mahantaradukaṃ – Nhị đề đại đỉnh là phần gồm các đề tài có đôi câu tương đối nhau, đề cập những vấn đề chi tiết trong pháp chân đế, nhưng các đề tài không liên quan nhau một khía cạnh, nên đây không gọi là tụ (gocchaka).
(19) UpādānagocchakaṃṬụ thủ. Gồm các đề tài liên kết nhau nói chung quanh vấn đề pháp thủ.
(20) Kilesagocchakaṃ. Tụ phiền não. Gồm các đề tài kết nhau nói chung quanh vấn đề pháp phiền não.
(21) Pitthidukaṃ Nhị đề yêu bối. Gồm các đề tài có đôi câu tương đối đề cập đến ý nghĩa pháp theo khía cạnh ngoài của mẫu đề tâm, nhưng toàn bộ đề tài phần này không liên kết nhau, do đó không gọi là tụ (gocchaka).
(22) Abhidhammamātikā – Mẫu đề theo Vi Diệu Pháp, tức là những đề pháp nói theo thuần chi pháp chân đế của Luận Tạng
(23) Suttantamātikā – Mẫu đề theo kinh, tức là những đề pháp giải theo khía cạnh của Tạng Kinh, nhưng cũng rút được chi pháp.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






