Phật Thuyết Kinh Bốn Mươi Hai Chương & Phần 1

PHẬT THUYẾT KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
Phạn dịch Hán: Ca Diếp Ma Đằng (Kashyapa maganta) và
Trúc Pháp Lan (Gobharana) thời Hậu Hán.
(Hán dịch Việt: Các bản dịch của TK. Thích Tâm Châu; TK. Thích Trí Quang; TK. Thích Thanh Cát;…; Ban Phiên dịch Việt Ngữ ‘Tổng Hội Phật giáo Pháp Giới Vạn Phật Thánh Thành’; Đoàn Trung Còn , Nguyễn Minh Tiến;…; Trích TÌM HIỂU KINH 42 CHƯƠNG TK. Thích Nhật Từ; … )
(Nguồn_https://thuvienhoasen.org/p17a8872/kinh bon muoi hai chuong)
TỰA [[1]]
Sau khi Đức Thế Tôn thành Đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh, là thù thắng nhất!" Rồi Ngài trụ trong Đại Thiền định mà hàng phục ma đạo. Tại vườn Lộc dã, Ngài chuyển Pháp luân Tứ Đế, độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều Trần Như đều chứng được Đạo quả.
Lại có các vị Tỳ Khưu nói lên những điều ngờ vực của mình, xin Phật chỉ dạy cho điều gì nên tiến và điều gì nên ngưng.
Đức Thế Tôn dạy bảo, ai cũng đều khai ngộ. Các vị chắp tay, kính vâng và thuận theo lời Ngài chỉ dạy.
Chương 1: XUẤT GIA, CHỨNG QUẢ
Đức Phật dạy: "Những vị từ giã người thân để xuất gia, biết tường tận tâm tánh,[[2]] thấu hiểu pháp Vô vi,[[3]] được gọi là Sa Môn.[[4]] Họ thường xuyên hành trì 250 giới,[[5]] tiến chỉ thanh tịnh,[[6]] tu hành bốn đạo hạnh chân chánh,[[7]] nên được thành bậc A la hán."
"Các bậc A la hán[[8]] đều có thể phi hành, biến hóa, có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp và làm động trời đất nơi họ an trụ."
"Thứ đến là A na hàm.[[9]] Khi bậc A na hàm mạng chung, linh thần sẽ lên trên cõi thứ mười chín,[[10]] và chứng được quả vị A la hán."
"Thấp hơn là Tư đà hàm.[[11]] Bậc Tư đà hàm còn một lần lên và một lần trở lại nữa là đắc quả A la hán.
Thấp nữa là Tu đà hoàn.[[12]] Bậc Tu đà hoàn còn bảy lần sanh và bảy lần tử nữa mới chứng được quả vị A la hán.
Đoạn trừ ái dục[[13]] thì cũng như chặt đứt tứ chi,[[14]] không còn dùng lại nữa."
Chương 2: TRỪ DỤC VỌNG, DỨT MONG CẦU
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa môn đoạn dục, khử ái, nhận biết nguồn tâm[[15]] của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô Vi.
Họ trong không sở đắc,[[16]] ngoài không sở cầu;[[17]] tâm không ràng buộc nơi Đạo, và cũng chẳng kết nên nghiệp.
Họ không nghĩ họ làm,[[18]] chẳng tu chẳng chứng, không trải qua các quả vị mà tự nhiên lại cao tột bực. Đó gọi là Đạo!"
Chương 3: CẮT ÁI DỤC, XẢ BỎ LÒNG THAM
Đức Phật dạy: "Những vị cạo bỏ râu tóc[[19]] làm bậc Sa môn, thọ nhận Đạo Pháp, từ bỏ của cải thế gian, khất thực chỉ nhận đủ dùng, giữa ngày ăn một bữa, dưới cội cây nghỉ một đêm, và thận trọng, không cầu mong nhiều hơn.
Chính ái dục làm cho con người bị ngu tế vậy!" [[20]]
Chương 4: THIỆN ÁC PHÂN MINH
Đức Phật dạy: "Chúng sanh[[21]] lấy mười việc làm điều thiện, cũng lấy mười việc làm điều ác. Những gì là mười? Thân có ba, miệng có bốn, ý có ba.
- Thân có ba là sát sanh,[[22]] trộm cắp,[[23]] dâm dục.[[24]]
- Miệng có bốn là nói hai lưỡi,[[25]] nói lời ác,[[26]] nói dối[[27]] và nói thêu dệt.[[28]]
- Ý có ba là đố kỵ, sân hận và ngu si.[[29]]
Mười việc này không thuận với Thánh Đạo, gọi là Thập Ác Hạnh. Nếu dứt được những việc ấy thì gọi là Thập Thiện Hạnh vậy."
Chương 5: CHUYỂN NẶNG THÀNH NHẸ
Đức Phật dạy: "Người có nhiều điều lỗi mà không tự hối, lại khiến tâm kia chợt dứt, thì tội lại dấn vào thân, như nước đổ về biển, lâu dần thành sâu rộng.
Nếu người có lỗi tự biết nhận lỗi, đổi ác làm lành, thì tội sẽ tự nhiên tiêu diệt,[[30]] như bệnh mà được ra mồ hôi, bệnh dần dần thuyên giảm vậy!"[[31]]
Chương 6: NHỊN KẺ ÁC VÀ KHÔNG OÁN HẬN
Đức Phật dạy: "Khi kẻ ác nghe các ông làm việc thiện và cố ý đến nhiễu loạn,[[32]] các ông hãy tự ngăn dứt chứ không nên giận trách. Kẻ mang điều ác đến sẽ phải tự nhận lấy điều ác."
Chương 7: Ở ÁC GẶP ÁC
Đức Phật dạy: Có người nghe tiếng Phật giữ Đạo và thực hành hạnh đại nhân từ, bèn cố ý đến mắng Phật. Phật làm thinh, chẳng đáp.
Khi người kia mắng xong, Phật hỏi: "Ông lấy lễ đãi người, người kia không nhận; lễ ấy có về lại ông chăng?"
Đáp rằng: "Về lại!"
Phật bảo: "Nay ông mắng Ta nhưng Ta không nhận, ông tự đem họa về thân ông vậy; như vang ứng theo tiếng, như bóng hiện theo hình, cuối cùng vẫn chẳng tránh được. Hãy thận trọng, chớ làm điều ác!"
Chương 8: GIEO GIÓ GẶP BÃO
Đức Phật dạy: "Kẻ ác hại người hiền, như người ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng không tới trời mà trở lại rơi nhằm mình; hoặc như người ngược gió tung bụi, bụi chẳng đến nơi khác mà trở lại làm dơ mình; người hiền không hại được, mà họa tất diệt mình."
Chương 9: VỀ NGUỒN GẶP ĐẠO
Đức Phật dạy: "Học rộng,[[33]] đắm say Đạo lý,[[34]] thì Đạo ắt
khó lãnh hội được.[[35]] Giữ vững quyết tâm, thấu suốt diệu lý, y nơi trí tuệ mà hành Đạo,[[36]] thì Đạo kia rất lớn."
---
Phần chú giải
[[1]] Bài “TỰA” kinh có lẽ do những người soạn kinh đưa vào, cho thấy kinh này được biên soạn từ những lời chỉ dạy của Phật, ghi lại những chỗ cốt yếu làm kim chỉ nam.
[[2]] tường tận tâm tánh: Hiểu biết rằng tâm nầy vốn thanh tịnh, chân thật. Kinh Bát nhã nói: "Đối với tất cả các pháp, tâm là thiện đạo." (bậc dẫn dắt giỏi). Vì thế nên “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.
[[3]] Pháp vô vi (Ngược với pháp hữu vi, tạo tác, làm ra): là pháp không tạo tác (không làm ra), vậy nên không có bốn tướng “sanh, trụ, dị, diệt”.
[[4]] Sa môn: Viết trọn là sa môn na, do tiếng Phạn là Sramana, nghĩa là vị tu sĩ xuất gia giữ tịnh hạnh. Có các nghĩa là: cần giả (Người siêng năng làm các điều thiện), tức giả (người dứt bỏ các nghiệp ác), bần giả (người chịu sống cảnh tiết giảm, biết đủ về vật chất).
[[5]] 250 giới: là toàn bộ các điều khoản giới luật quy định cho một Tỳ kheo Tăng (cũng gọi là Cụ túc giới; Theo truyền thống Luật tạng của Phật giáo Nam tông chỉ có 227 giới.)
[[6]] Kinh văn là "tấn chỉ", nghĩa là "tới lui đều thanh tịnh” (hàm ý chỉ hết thảy mọi hành động). Bản khác là "tấn chí thanh tịnh", nghĩa là "tiến tới chỗ thanh tịnh", thấy không hợp với chỗ đang nói về 250 giới. Theo như nghĩa "tấn chỉ" thì hợp lý hơn, vì nói rộng thêm về oai nghi của vị sa môn.
[[7]] Bốn Đế (Tiếng Phạn là Catvariaryasatyanu): Tức là Tứ đế (Bốn đế) do Phật thuyết dạy là: Khổ đế; Tập đế; Diệt đế; Đạo đế. Ý nghĩa 1)Khổ đế: đặc trưng gồm tám món khổ nhân sinh (sanh, già, bệnh, chết, mong cầu không được, thương yêu phải xa lìa, oán thù hay gặp, ngũ ấm xí thịnh). 2)Tập đế: Nguyên nhân sinh khổ, phiền não, lậu (rỉ chảy) hoặc (che mờ). 3)Diệt đế: là cảnh giới “khổ, phiền não, lậu hoặc” không còn trong tâm thức (tạm gọi là Niết Bàn). 4)Đạo đế: gồm Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
[[8]] A la hán (Tiếng Phạn là Arahat): Quả thánh cao nhất trong bốn quả thánh của Nhị Thừa. Người đắc quả thánh này gọi là A la hán, có ba nghĩa:
- Sát tặc: giết giặc nghịch, ở đây là chỉ giặc phiền não. ●Ứng cúng: Xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của chư thiên, nhân loại, nghĩa là có đầy đủ oai nghi, phước đức. ●Bất sanh: Nghiệp lực đã dứt, chẳng còn phải sanh trở lại ba cõi.
[[9]] A na hàm (tiếng Phạn là Anãgãmin; Hán dịch nghĩa là Bất lai hoặc Bất hoàn): Quả thánh thứ ba, chỉ thấp hơn quả A la hán, nghĩa là không còn phải tái sanh trở lại ba cõi.
[[10]] Tầng trời thứ 19: Các cảnh trời trong Tam giới phân ra làm ba mươi tầng. Từ dưới kể lên có 6 tầng thuộc Dục giới, 20 tầng thuộc Sắc giới, và 4 tầng thuộc Vô sắc giới. Tầng trời thứ 19 tức là Quảng quả Thiên (Brhatphala) ở Sắc giới, là cảnh cao nhất trong ba cảnh của Tứ thiền thiên. Trên tầng trời ấy là 5 Bất hoàn thiên (Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh), thuộc cõi Sắc, mà vẫn như không lệ thuộc 3 cõi, và là chỗ của các thánh giả A na hàm (Bất hoàn) cư trú.
[[11]] Tư đà hàm (tiếng Phạn là Sakrdãgãmin; Hán dịch nghĩa là Nhất lai): Quả thánh thứ hai. Người chứng đắc quả thánh này còn một lần sanh trở lại cõi trời người trước khi chứng quả A la hán.
[[12]] Tu đà hoàn (tiếng Phạn là Srotãpanna): Quả thánh đầu tiên, hay Sơ quả, thấp nhất trong bốn quả thánh của Nhị thừa. Hán dịch là Nhập lưu hay Dự lưu, nghĩa là người mới nhập vào dòng. (Ở đây có nghĩa là dòng thánh.)
[[13]] Ái dục: Ái là tham ái, dục là tham dục, đôi khi cũng chỉ gọi là ái. Đó là lòng luyến ái ham muốn do sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm) đối với sáu trần (hình sắc, âm thanh, hương, vị, xúc cảm, các pháp) mà khởi lên. Cũng có thể hiểu:
- ●1. Sự tham muốn và đắm chấp mạnh nhất trong đời sống mà con người trải qua, như vợ chồng, con cái v.v... (s: kāma, icchā); ●2. Sự đánh bẫy của năm giác quan do cảnh trần; ●3. Đam mê hư vọng (s: tṛṣṇā); ●4. Đam mê tình dục, phạm sắc giới. (s: maithuna); ●5. Phiền não, nhiễm ô (s: kleśa).
- Luyến ái và dục vọng, hoặc tình thương yêu gia đình.
- Khát ái (P: Taṇhā, S: Tṛṣṇā; Desire; Craving), thô kệch hay vi tế, luôn ngủ ngầm trong mỗi người, là nguyên nhân chủ yếu những bất hạnh lớn trong đời. Ái dục làm ta bám víu vào đời sống với mọi hình thức, do đó dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi. (Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con tài sản mới thật sự là sự trói buộc chắc bền)
[[14]] Cả bốn thánh quả đều do cắt đứt ái dục mà chứng đắc. Ái dục làm cho con người tạo nghiệp quả, do nghiệp quả mà lưu chuyển trong luân hồi. Ái dục bị cắt đứt cũng như tay chân bị cắt đứt, không còn tạo nghiệp nữa.
[[15]] Nguồn tâm: Bản thể của tâm, hay bổn tâm.
[[16]] Không có chỗ chứng đắc: Vô sở đắc, tự thấy mình không có gì gọi là chứng đắc. Kinh Niết bàn nói: "Không chỗ chứng đắc, đó gọi là Huệ; có chỗ chứng đắc, đó gọi là Vô minh... Có chỗ chứng đắc gọi là vòng sanh tử. Tất cả phàm phu đều luân hồi sanh tử, nên có chỗ chứng đắc. Bồ Tát đoạn dứt sanh tử, cho nên không có chỗ chứng đắc."
[[17]] Không có chỗ mong cầu: Vô sở cầu, không cầu mong gì cả. Nếu cầu mà chẳng được thì sanh khổ. Người không có chỗ mong cầu tức thoát được mối khổ này.
[[18]] Không tạo tác: Vô tác, mọi hành vi không còn sự cố ý tạo tác nữa, chỉ tùy theo nhân duyên mà sanh khởi, diệt mất. Kinh Vô lượng thọ nói: "Không tạo tác, không sanh khởi, nhìn thấy các pháp như huyễn hóa."
[[19]] ...cạo bỏ râu tóc: Đức Phật quy định rất rõ: “cạo bỏ râu tóc, làm thầy sa môn là người lãnh thọ đạo pháp”. Người xuất gia theo Phật cạo bỏ râu tóc là bước ngoặt để xác định rằng mình đã từ bỏ những ham muốn, ràng buộc thế tục và dẹp trừ lòng kiêu mạn, tự thị... Đánh đổi một đời sống mới, đời sống tu sĩ, nơi không dung chứa những hình thức thế gian trước khi trở thành người thọ lãnh đạo pháp. Đạo pháp là nền tảng chính của đời sống sa môn Thích tử mà hình thức bên ngoài chỉ là những yếu tố nhằm minh họa nét đặc thù của đạo pháp đó mà thôi.
[[20]] Vị Tỳ kheo ăn mỗi ngày một lần vào giờ ngọ, quá giờ thì chẳng ăn. “Trong khi ăn hay đang khi thọ lãnh vật thực, tâm vị sa môn không tham đắm. Chẳng vì thân mạng mà vì chánh pháp. Chẳng vì da thịt mà cốt vì chúng sinh. Để trị bệnh đói mà hành đạo… dầu đặng thức ăn ngon cũng không tham đắm.” (Đại Bát Niết Bàn II, tr. 49).
“Này các Tỳ kheo, Ta ăn, từ bỏ ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, Ta cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú. Này các Tỳ kheo, khi ăn các vị hãy từ bỏ ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, các vị sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú.” (Trung Bộ II, tr. 209)
Không ngủ dưới một gốc cây trong hai đêm liên tiếp, vì sợ rơi vào chỗ ham thích, tham luyến nơi gốc cây ấy. Phật dạy: “Có 5 nguy hại này, này các Tỳ kheo, nếu sống quá lâu ở một trú xứ: 1/ Đồ dùng nhiều, cất chứa nhiều đồ dùng. 2/ Nhiều dược phẩm, cất chứa nhiều dược phẩm. 3/ Nhiều công việc phải làm, nên không khéo léo trong những công việc phải làm. 4/ Sống lẫn lộn với gia chủ, tùy thuận trong sự liên hệ với gia chủ. 5/ Và khi ra đi, bỏ trú xứ ấy, vị ấy ra đi với sự luyến tiếc.” (Tăng Chi Bộ II, tr. 260 261)
[[21]] Chúng sanh: (S: sattva, P: satta, 眾生; Hán dịch âm là Tát đỏa, dịch nghĩa là Chúng sanh, hay hữu tình, hữu thức, hàm sanh..): Phật đạo gọi chung cho tất cả các sinh vật hữu tình (có tri có giác) của thế gian và xuất thế gian. Tuy nhiên, phần lớn người ta thường phân biệt và xem hạng phàm phu là chúng sanh, còn các bậc Thánh như Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, La Hán, v.v... thì không phải là chúng sanh. (Nghĩa thường dùng: Chỉ chung cho các loài trong Ba cõi, Sáu đường. Thọ nghiệp sanh tử liên miên trong vòng luân hồi. Chúng sanh sanh ra bằng bốn cách: Thai sanh (sanh từ bào thai), noãn sanh (sanh ra từ trứng), thấp sanh (sanh từ chỗ ẩm ướt), hóa sanh (sanh ra do sự biến hóa).)
[[22]] Sát sanh: giết chết, đoạn dứt một hay nhiều sanh mạng với ác ý. Kinh Niết bàn nói: Tội sát có ba bực: Hạ, Trung, Thượng. Hạ là giết hại mạng chúng sanh, cho dù là một con kiến, cho đến bất kỳ loài nào trong các loại súc sanh. Do tội ấy, kẻ phạm tội sẽ đọa vào ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ bậc dưới, bậc nhẹ. Tại sao vậy? Vì những súc sanh ấy có thiện căn nhỏ, cho nên kẻ giết thọ đủ quả báo theo bậc ấy. Trung là giết từ kẻ phàm phu lần lên đến vị chứng quả A na hàm. Kẻ phạm tội sẽ đọa ở ba nẻo ác, chịu khổ báo bậc trung. Thượng là giết cha, giết mẹ hoặc một vị A la hán, hoặc Phật Bích chi. Kẻ phạm tội sẽ đọa ở địa ngục Vô gián, chịu khổ báo không gián đoạn, nặng nề nhất.
[[23]] Trộm cắp: Nói chung bất cứ vật gì thuộc sở hữu kẻ khác, chẳng đồng ý cho mà mình tìm cách để đoạt lấy, dù công khai hay lén lút, đều là phạm vào tội này.
[[24]] Dâm dục: Tình dục giữa nam nữ với nhau. Người tu Phật xuất gia dứt bỏ hẳn sự dâm dục. Người tại gia thì tránh sự tà dâm, nghĩa là không làm sự dâm dục với người không phải vợ hoặc chồng mình.
[[25]] Hai lưỡi: Tức là nói lời không chân thật, trước sau chẳng như nhau, thường là nhằm để ly gián người khác, hoặc làm cho người nầy và người kia ghét nhau, oán nghịch nhau.
[[26]] Nói ác: Là những lời nói cộc cằn, thô lỗ, độc ác… như mắng, chửi, phỉ báng, nguyền rủa… người khác (gây phiền não cho người).
[[27]] Nói dối: Lời không đúng sự thật, chuyện không nói có, chuyện có nói không...
[[28]] Nói thêu dệt: Lời nói ra có dụng ý uốn nắn, thêu dệt, cố tình dùng văn chương hoa mỹ mà làm cho người nghe hiểu sai sự thật hoặc phải theo ý mình.
[[29]] Tâm lý tham lam, đố kỵ, sân hận, si mê… quyết định sự thi thố các hành vi, nó chính là ý tưởng hay tác ý.
Kệ Pháp Cú nói: ●“Ý dẫn đầu các pháp/ Ý làm chủ, ý tạo/ Nếu với ý nhiễm ô/ Nói lên hay hành động/ Khổ não bước theo sau/ Như xe, chân vật kéo.”(Dhp Pháp cú.1)
Hoặc là không tham lam, không đố kỵ, không sân hận, không si mê. thì…●“Ý dẫn đầu các pháp,/ Ý làm chủ, ý tạo,/ Nếu với ý thanh tịnh,/ Nói lên hay hành động,/ An lạc bước theo sau,/ Như bóng, không rời hình” (Dhp _Pháp cú.2)
[[30]] “Tự mình điều ác làm/ Tự mình làm nhiễm ô/ Tự mình bỏ điều ác/ Tự mình làm thanh tịnh / Thanh tịnh hay nhiễm ô / Đều do tự chính mình / Không ai thanh tịnh ai.”(Dhp _Pháp cú.109)
[[31]] “Ai chậm làm việc lành / Ý ưa thích việc ác / Hãy gấp làm điều lành/ Để xóa mờ tâm ác.” (Dhp _Pháp cú.116);
“Ai dùng các hạnh lành / Làm xóa mờ nghiệp ác / Chói sáng cuộc đời này / Như trăng thoát mây che.” (Dhp _Pháp cú.173)
[[32]] “Những người hay khuyên dạy / Ngăn người khác làm ác / Được người hiền kính yêu / Bị người ác không thích.” (Dhp _Pháp cú.77).
Đức Phật cũng tự thuật trong kệ Pháp cú: “Ta như voi giữa trận/ Hứng chịu cung tên rơi / Chịu đựng mọi phỉ báng / Ác giới rất nhiều người.”
Ngài vẫn giữ được thái độ bình thản, không chao động, ngay cả khi được khen: “Như tảng đá vững chắc, / không lay động trước gió. / Cũng vậy, tán dương hay khiển trách, / người trí không dao động .” (Dhp _Pháp cú.81)
[[33]] Đức Phật gọi người bác học đa văn về Phật học: “Những người nào học rộng nghiên cứu nhiều, thông hiểu các tập Kinh Nikaya, thường tham vấn học hỏi, trau dồi pháp nghĩa để khai mở những gì chưa biết và giải quyết mọi nghi vấn. Hạng người như vậy được gọi là người đã xây dựng được cơ bản.” (Tăng Chi I, tr. 131).
Đức Phật xác quyết là quý hiếm: “Này các Tỳ kheo, số ít là các chúng sinh học rộng hiểu nhiều pháp và luật của Như Lai thuyết. Số nhiều là các chúng sinh không thông hiểu.” (Tăng Chi I, tr. 46).
Đức Phật còn nêu ra năm lợi ích của đa văn Phật học, mà sự bất thoái trong chánh pháp là chính: “Này các Tỳ kheo, người học rộng nghiên cứu nhiều được năm lợi ích sau: 1/ Biết những gì chưa biết. 2/ Làm trong sạch những gì được biết. 3/ Đoạn trừ các nghi hoặc. 4/ Tạo nên tri kiến chánh trực. 5/ Làm tâm bất thoái.”( Tăng Chi II, tr. 250).
[[34]] Đối với người tri mà thiếu hành, Đức Phật phê phán rất nhiều, ví họ như loài chuột đào hang nhưng không ở, uổng công vô ích: “Có hạng người thuộc lòng nhiều pháp, giảng thuyết nhiều pháp, nhưng không thực hành Tứ diệu đế. Ta gọi đây là hạng người đào hang nhưng không ở.” (Tăng Chi I, tr. 483). Lần khác, Đức Phật bảo đó là người có sấm nhưng không mưa: “Có hạng người nói nhưng không làm, đó là hạng người có sấm không mưa.” (Tăng Chi II, tr. 477)
[[35]] Thái độ biết để mà biết, không thực nghiệm, ứng dụng vào cuộc sống tu tập, dẫn đến mắc vào sở tri chướng, có nhiều sự vụng về trong hành vi, trong nếp nghĩ, tri hành trái nhau, cuối cùng bị phiền não chinh phục, đau khổ, nên Đức Phật mới bảo là xa với Đạo.
[[36]] Đức Phật dạy tương tự: “Tâm Như Lai là tâm đại bi. Hạnh Như Lai là hạnh vô úy, luôn giáo huấn cho chúng sinh trí tuệ giác ngộ. Đức Như Lai là đạo sư của chúng sinh. Các người phải học hỏi, thực hành giáo pháp của Như Lai.” (Kinh Pháp Hoa, phẩm Chúc Lụy, tr.509)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






