Minh Bạch Nhận Thức Về Tu Hành Trong Phật Đạo

 0
Minh Bạch Nhận Thức Về Tu Hành Trong Phật Đạo

Các bạn! ...  Thời gian gần đây, mình thường nghe người tu hành bàn Luận Về hai đề tài được coi là cơ bản của Phật đạo, thậm chí hai đề tài này mang nặng tính định hướng trong Đạo Pháp, đó là: 

  • Tu như thế nào là đúng, tu như thế nào là sai (ta có thể hiểu nôm na, con đường nào là chánh_Thẳng, đúng hướng, đúng chỉ thú của Phật đạo; con đường nào là _Xiên, lệch hướng, không đúng chỉ thú của Phật đạo).
  • Như thế nào là Thế Gian Đạo (hữu lậu, hữu vi), như thế nào là Xuất Thế Gian Đạo (vô lậu, vô vi).

Để làm sáng tỏ hai vấn đề trên, mình có một số câu hỏi gởi đến các bạn. Rất mong nhận được những kiến giải hữu ích từ các bạn, để HĐ Lý Gia lấy đây làm cơ sở, định hướng cho mục tiêu tu tập. Những câu trả lời hay, có sức thuyết phục cao, sẽ được kết tập để làm tài liệu tham khảo. Các câu hỏi như sau:

  • CÂU HỎI TCTT 2018/05 − Minh Bạch Nhận Thức Về... “Tu Hành …”
  • Câu hỏi về... Tu ĐÚNG…; … Tu SAI…?

1) Căn cứ vào đâu, để biết rằng một vị tu hành trong Phật đạo đang tu đúng Chánh Pháp. Bạn có thể đưa ra một vài ví dụ minh hoạ, nhằm làm sáng tỏ điều bạn muốn nói!

2) Giả sử có những chúng sinh không phải là người, có thể là Ngạ Quỷ hay Súc Sinh (như Quỷ La Sát hoặc trâu, bò...) mà trên bước đường tu hành của các chúng sinh này, đã tuyên thuyết hoặc đang thành tựu một hoặc đủ các điều như bạn nêu ở câu (1). Theo bạn, các Ngạ Quỷ, Súc Sinh đó có đáng để chúng ta kết thành Thiện Hữu (bạn lành), và có đáng để chúng ta lễ lạy hay không? Bạn có thể nêu một đoạn kinh tiêu biểu, nhằm xác chứng nhận định của bạn là đúng với tinh thần Đạo Pháp!

  • Câu hỏi về THẾ GIAN và XUẤT THẾ GIAN ĐẠO

1) Theo bạn, khái niệm Thế Gian và Xuất Thế Gian trong Phật đạo nhằm chỉ cho điều gì? (Cụ thể là, hai khái niệm này nhằm chỉ cho trú xứ (địa phương), hình tướng bên ngoài hay tâm thức).

2) Người được coi là thành tựu Đạo Xuất Thế, sẽ khác với người còn ở trong Đạo Thế Gian những đặc điểm cơ bản nào mà ta có thể dễ dàng nhận biết?

Rất mong, nhận được những kiến giải lý thú từ các bạn.

GỢI Ý... TCTT 2018/05 − Minh bạch Nhận Thức Về “Tu Hành…”

Các bạn! ... Chuyện đúng, sai, chánh, tà... đối với người tu hành trong Phật đạo, không phải là đề tài mới. Và, đây cũng là đề tài từ trước đến nay được người tu hành thường đem ra mổ xẻ mỗi khi đàm luận, hầu tìm phương hướng đúng nhất cho cuộc đời tu tập! Và dĩ nhiên, để có thể kết luận hay đánh giá một hành động, một nghĩ suy, một sự việc trên đời đã và đang xảy ra là đúng hay sai, là tà hay chánh, là việc làm không hề dễ dàng, nếu ta chưa biết thật sự động cơ và mục đích của hành động hay nghĩ suy đó là gì. Vì thế, chỉ căn cứ vào hiện tượng, vào dáng vẻ bên ngoài của điều mình thấy được mà đánh giá, nhất định đánh giá hay kết luận này không thoả đáng! Đánh giá việc đời đã là rất khó khăn như vậy, hà huống đánh giá một con đường tu hành lại càng khó khăn hơn. Và, thận trọng xem xét là điều không thể thiếu!

Trong Phật đạo, chuyện tu đúng tu sai, không thể dựa vào cảm tính, càng không thể dựa vào tình cảm hay quan điểm của một cá nhân như đi xem một vở tuồng để giải trí trong nhất thời. Mà nó là sự chọn lựa con đường để người tu hành bước đi và dâng hiến trọn cuộc đời. Vì thế, càng cẩn trọng, càng hiểu rõ con đường ấy là gì, càng biết chắc mục tiêu con đường này sẽ đưa ta đến đâu, nhất định việc đánh giá rằng con đường ta đang đi là đúng hay sai sẽ không còn là mối bận tâm!

Các bạn! ... Tất cả mọi con đường trên thế gian, tự thân nó chẳng có ý nghĩa đúng sai. Các con đường ấy, chỉ trở thành đúng hay sai, khi những người đi trên con đường đó đặt ra mục tiêu mình cần đến! Và, một trong những con đường đó được coi là đúng, khi nào con đường này dẫn người đi đến nơi cần đến! Nếu người đi, chọn con đường không dẫn đến mục tiêu đề ra, bây giờ con đường người kia đang đi trở thành con đường sai!

Ví dụ: − Nơi một giao lộ có sáu hướng đi, một hướng đi A, một hướng đi B, một hướng đi C và các hướng còn lại đi D, E, F. Có người cần đi về hướng A, nếu người này chọn con đường hướng A, con đường A là con đường đúng, các con đường còn lại sẽ là con đường sai với chính người đó, vì nó không dẫn đến mục tiêu A!

Giống như một đứa trẻ muốn đến trường. Trước mắt đứa trẻ có nhiều con đường, trong đó chỉ có một con đường nhiều chông gai, không đẹp nhưng dẫn lối đến trường. Những con đường còn lại, có con đường rộng, có con đường nhiều hoa đẹp, có con đường hẹp, có con đường nhiều bóng mát nhưng đều không dẫn đến trường.

Nếu, đứa trẻ vì thiếu trí, ngại chông gai, thích hoa đẹp, ưa bóng mát. Từ bỏ con đường nhiều chông gai, chọn một trong những con đường còn lại để đi. Cho dù đứa bé đó có đi hết cuộc đời, mục tiêu đến trường sẽ không thể thực hiện được!

Con đường đưa đến những Đạo Quả trong Phật đạo cũng như thế. Muốn biết con đường nào là đúng, muốn biết con đường nào trong Phật đạo là tối thắng! Các bạn hãy tìm xem mục tiêu của Phật đạo là gì? Có bao nhiêu bước để người tu hành thành tựu mục tiêu Phật đạo đề ra?

Các bạn! ... Con đường nào giúp ta bước đi từng bước vững chắc như pháp và bước cuối cùng hoàn thành mục tiêu Phật đạo đề ra, con đường đó chính là con đường đúng nhất mà người tu hành phải chọn! Giống như một người đặt mục tiêu đi đến điểm E. Muốn đến điểm E, người này phải đi trên con đường trải qua các điểm A, B, C, D. Con đường nào hội đủ các yếu tố trên, con đường đó chính là con đường người này phải chọn!

Các bạn thử nghiệm xem, mục tiêu của Phật đạo là gì? Các bước nào giúp ta như pháp vượt qua để đến được mục tiêu cuối cùng? Chừng nào thấu suốt những điều này, việc chọn lựa con đường đúng sẽ không còn khó khăn! Nếu chưa nắm vững những điều trên, mơ hồ về mục tiêu, mơ hồ về các bước dẫn đến mục tiêu, hoặc đi trên các bước không như pháp. Mọi định lượng đúng sai trong chuyện tu hành là không thể! Hy vọng, một vài gợi ý trong bài viết này, sẽ giúp các bạn tìm ra, biết chắc con đường tu hành trong Phật đạo như thế nào là đúng nhất!

Mỗi một trả lời từ các bạn, như những ngọn đuốc rực cháy, thắp sáng Chánh Pháp, như những nhát gươm bén, chém tả tơi cành ngọn Mạt Pháp! Có nghe các bạn trình bày về hai chữ chánh, tà (đúng, sai) của người tu hành, mới thấy được, chúng ta là những con người hạnh phúc nhất.

May mắn và hạnh phúc chúng ta có được hôm nay, là nhờ chúng ta biết “Bám Vào Giáo Pháp Như Bám Vào Chiếc Phao Lành Khi Qua Biển Lớn”. Chúng ta biết lấy Giáo Pháp làm kim chỉ nam, lấy Giáo Pháp làm hành trang tu tập, lấy Giáo Pháp làm tri thức hoàn hảo để cải thiện đời sống... Và chúng ta cũng biết rất rõ, Giáo Pháp chính là cái gốc của Chánh Pháp, xa rời cái gốc Giáo Pháp mà chạy theo bất kỳ một ngoại pháp nào, cầm bằng như người trôi dạt giữa biển lớn mà ôm phải đống bọt nước, hay ôm phải tử thi lâu ngày đã bị phân huỷ, chờ thời gian tàn rục!

Cái gì là chánh, cái gì là tà? Cái gì là chánh, cái gì là mạt? Ngày Thế Tôn còn tại thế, mỗi lời dạy của Ngài là một liều thuốc chữa người hết khổ phiền não, là một Pháp Môn (lời pháp) mở toang cánh cửa tâm thức của những chúng sanh đang bị đóng kín bởi bao u mê chất chồng, để từ đó, ngọn gió Niết Bàn ập vào xua tan nhiệt não, và ánh sáng trí tuệ chiếu đến khiến hết tăm tối vô minh. Và giờ đây, những lời pháp (Pháp Môn) ấy đâu rồi, vô lượng câu Pháp (vô lượng Pháp Môn) đã đi về đâu? Nếu có còn chăng, chỉ còn trong những quyển kinh vô tri, bị mối mọt gặm nhấm theo thời gian? Trong cái ảm đạm của Giáo Pháp ấy, nó giống như người ta đang bị chết dần chết mòn trong rừng thuốc, vì bởi u mê, không biết dược tính, không biết cách sử dụng. 

Thế là, để tự trấn an trước thần chết, người ta bằng lòng ôm một vài phép tu lèo tèo mà nhầm tưởng là Pháp Môn, nó giống như người chết chìm trong biển lớn, vui mừng khi vớ phải tử thi! Giờ đây, ý nghĩa thâm u của Giáo Pháp có còn chăng, chỉ còn lại những liệt kê vô hồn với những Pháp Số, Pháp Danh chi chít, như một cái toa ghi đầy đủ tên thuốc cùng số lượng mà chẳng tìm đâu ra một thang thuốc đích thực!

  • Nếu có còn chăng, một lời hứa hẹn hão huyền sau khi chết. Đạo Ta mà chẳng khác Đạo Tây, chỉ khác chăng là khác người ngồi trên bàn thờ!
  • Nếu có còn chăng, chỉ còn lại những câu nói vô nghĩa kiểu trên trời dưới đất, mà kẻ trí khi nghe qua không biết nên khóc hay cười.
  • Nếu có còn chăng, chỉ những phát ngôn “đao to búa với”, nào tánh, nào tướng, nào bản thể, nào đốn, nào tiệm mà trong lòng chưa một lần vơi phiền não, chưa một lần đố kỵ, ghét ganh được điểm mặt chỉ tên!
  • Nếu có còn chăng, chỉ còn nhưng lời hô hào suông “hiếm có khó được”. Hiếm có khó được phải chăng là những thứ (pháp) mà ngoài đời ai cũng biết, chỉ có người tu hành từ trước đến nay không biết, nay mới được nghe, được biết đến hay sao?

Điều mình thích nhất hôm nay là, một đoạn văn trong bài viết của Lý Hậu Vệ: “Để biết một người tu đúng Chánh Pháp hay không, trước tiên bản thân người đó phải biết như thế nào là Chánh Pháp. Nếu không biết điều này thì: Cái không phải là chánh mà lầm tưởng là chánh. Cái không phải là giáo pháp mà lầm tưởng là giáo pháp. Và vì không nhận thức đầy đủ hai điều này, theo con biết, có rất nhiều người tu hành, bỏ công sức cả đời, nhưng không hề thành tựu một chút Đạo Quả dù nhỏ nhất trong Phật đạo”.

Các bạn! ...  Chiều nay, trên đường thể dục, mình tự đặt ra câu hỏi: Vì sao lần này, các HĐ chúng ta đâm ra thông tuệ đến thế? Có phải những câu hỏi quá dễ hay không? Rồi mình tự phản biện: Nếu bảo rằng, các câu hỏi lần này thuộc loại dễ, bất kỳ người tu hành nào cũng có thể trả lời đâu là chánh, đâu là tà, đâu là thế gian, đâu là xuất thế. Điều này không hợp lý! Bởi lẽ, nếu là câu hỏi thuộc loại dễ, thì chẳng thể nhọc công xưa nay người tu hành bàn tới bàn lui, thậm chí bàn đến sinh giận hờn, mà đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Thế là, mình quyết định đi tìm đáp án, bởi cớ sự thông tuệ đột xuất của HĐ Lý Gia!

Trên đường thể dục, vô tình mình gặp một ông bạn Việt Kiều không quen đang uống Cà Phê bên đường. Ông bạn thấy mình đi lang thang, ông ta gọi mình vào quán nước.

  • Xin giới thiệu, tôi là Y, Việt Kiều, về quê đã lâu. Thường ngồi đây uống nước mỗi buổi chiều và cũng thường thấy anh đi qua. Xin lỗi, mời anh ngồi uống nước cho vui!

- Cảm ơn! Tôi cũng thường thấy anh ngồi ở đây! Xin thưa, anh là Việt Kiều từ nước nào về ạ!

  • Anh dùng chi? Tôi từ nước X về! Lớn tuổi, chỉ muốn về với quê hương!

- Nước X chắc là đẹp lắm phải không anh?

  • Hình như chỉ chờ có thế, anh bạn Việt Kiều Y say sưa kể về xứ người, Anh ta mô tả vanh vách như đã thuộc lòng. Trong khi lỗ tai nghe anh Y nói, nhưng cái đầu của mình thì đang đánh vật với chuyện thông tuệ đột xuất của HĐ chúng ta. Bất chợt, trong câu chuyện về xứ người của anh Y, giúp mình tìm ra đáp án. Một đáp án với mình trong hiện tại, được cho là tương đối thuyết phục!

Chuyện chẳng có gì là lạ. Anh Y đã ở xứ X (xứ người) trên 40 năm, nên khi hỏi về xứ X, anh ta kể vanh vách. Nếu ta hỏi một xứ sở xa lạ nào đó, ví như Z hay J, liệu anh ta có kể vanh vách được chăng…, hay Anh ta...sẽ...ngọng! Sở dĩ HĐ chúng ta trả lời vanh vách đâu là chánh đâu là tà, đâu là thế gian, đâu là xuất thế vì HĐ chúng ta đã ở trong căn nhà Chánh Pháp và cõi nước Xuất Thế quá lâu, như anh Y đã ở nước X quá lâu! Những gì thuộc về chánh, cái chánh nó nằm ở đâu, xuất thế có những gì, khác với thế gian như thế nào, đối với HĐ chúng ta biết rõ như biết rõ lòng bàn tay của mình.

Thế nên, 20 người trả lời không sai một chữ là điều hiển nhiên, chỉ những ai chưa từng vào nhà Chánh Pháp, chưa từng nếm Đạo Vị Xuất Thế, chưa hề biết Chánh Pháp là gì, mới cãi nhau. Họ cãi nhau là chuyện tất nhiên, vì họ tuyên nói những điều mình chưa biết, chưa nếm. Chuyện này, cũng đâu có gì là lạ!

Các bạn! ...  Đáp án tìm ra từ một quán Cà Phê ven đường, cùng với Anh bạn Việt Kiều mới quen, cho mình nhiều hạnh phúc! Hạnh phúc vì biết chắc rằng mình cùng HĐ Lý Gia đã đi đúng. Biết rằng chúng ta đi đúng vì chúng ta đến được ngôi nhà Chánh Pháp và sống bằng Đạo Vị Xuất Thế! Cái thông tuệ đột xuất của HĐ bỗng dưng trở thành bình thường, như Anh Việt Kiều kể về nước X!

Có thể nói, chất lượng các bài viết của HĐ lần này đạt yêu cầu rất cao, thậm chí cực cao. Điều này được thể hiện qua con số Emails trả lời đúng về bốn câu hỏi (22/22), thuộc hai chủ đề: (I)Những cơ sở làm căn cứ để xác định thế nào là tu đúng Chánh Pháp; (II)Thế nào là Thế Gian Đạo & Thế nào là Xuất Thế Gian Đạo!

Sau khi đọc đi đọc lại trả lời của các HĐ, mình nhận ra: “Những yêu cầu của bốn câu hỏi, đã được các HĐ đã trả lời hoàn hảo, không còn gì để Lý Tứ này có thể thêm hoặc bớt... Nó giống như một con rắn hoàn hảo, đã được người hoạ sĩ siêu đẳng khắc hoạ trên một bức tranh độc đáo... Nếu có ai đó làm tài khôn, cố vẽ thêm mấy cái chân cho con rắn ấy, chắc hẳn tâm trí kẻ đó không được bình thường!.

Các bạn! ... HĐ chúng ta gồm nhiều tầng lớp, nhiều hạng người, nhiều hoàn cảnh. Để được tu tập, có người phải vừa tu vừa kiếm miếng ăn, có người phải cầu cạnh quyến thuộc để được đọc tụng kinh sách, có người phải chịu sức ép rất lớn từ những thành kiến sai lầm! Để viết được một email ngắn, có người phải bỏ công sức hơn một ngày công lao động cật lực, để đọc được một trang sách có người phải vật lộn vã mồ hôi với mớ chữ nghĩa mà từ lâu bản thân không đụng đến.

Nói chung, để được tu tập, phần lớn HĐ chúng ta tốn rất nhiều công sức. Và giờ đây, những khó khăn, những công sức mà HĐ chúng ta bỏ ra đã được đền đáp xứng đáng. Trò Chơi Trí Tuệ - 2018/05 với những emails trả lời đầy ắp hương vị Chánh Pháp, chính là minh chứng hùng hồn và là cơ sở thuyết phục nhất để nói rằng, bao khó khăn, bao công sức chúng ta bỏ ra là không hề uổng phí, và chúng ta đã chọn đúng con đường của một người có trí trong Phật đạo chọn lựa!

Sáng nay, Cánh cửa Trò Chơi Trí Tuệ - 2018/05 xin được khép lại! Chân thành cảm ơn Các bạn.

(Tham khảo) CẢM NHẬN TCTT 2018/05 − Minh Bạch Nhận Thức Về “Tu Hành Trong Phật Đạo” của HĐ…

  • Cảm Nhận TCTT 2018/05 – Minh Bạch Nhận Thức (Lý Anh Lạc)

Kính Thầy! Con xin tập trả lời câu hỏi; Kính Thầy chỉ dạy thêm...

  • Trả lời về Tu ĐÚNG, Tu SAI? Kính thưa Thầy!

1.− Trong kinh Phật có dạy: "Ta thuyết pháp không ngoài Tứ Đế".  Vì thế theo con, để biết rằng một vị tu hành trong Phật đạo đang tu đúng chánh pháp hay không nhất định phải căn cứ vào ba yêu cầu của Đạo Pháp, đó là: Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ. Vì: • Giác Ngộ giải quyết được hai đế đầu trong Tứ Đế là Khổ Đế và Tập Đế... • Giải Thoát thì giải quyết được Diệt Đế... • Trí Tuệ thì thành tựu đế thứ tư là Đạo Đế...  Có nghĩa rằng, khi một vị tu hành lần lượt thành tựu ba mục tiêu đó là, Giác Ngộ, Giải ThoátTrí Tuệ, thì vị này rất “tự tin” để hô lớn rằng: "Tôi đã Hết Khổ, Dứt Tập, Chứng Diệt và Thành Tựu Trí Tuệ”. Ví dụ:

− Một vị tu hành trong Phật đạo khi nhận thấy rằng, đối với tám món khổ: Sanh khổ, Già khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Cầu bất đắc khổ, Oán tắng hội khổ, Ngũ ấm xí thịnh khổ, không còn trói buột hoặc đeo bám... làm vị này khổ nữa. Và biểu hiện của hết khổ là gì? Đó là hết ái, hết oán thù, hết mong cầu và biết tri túc. Trong giải quyết tự thân, những dấu hiệu này là minh chứng, rằng "tôi đã Hết Khổ”. “Hết Khổ” chính là căn cứ, để biết rằng một vị tu hành trong Phật đạo đang tu đúng chánh Pháp.

− Thứ đến là mười kiết sử (Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến, kiến thủ kiến và ác kiến). Nếu thấy rằng, với mười kiết sử nêu trên có dấu hiệu giảm dần, cho đến hết. Đối với một vị tu hành trong Phật đạo thì đây là điểm báo, rằng "tôi đã Dứt Tập". Và “Dứt Tập” chính là căn cứ, để biết rằng một vị tu hành trong Phật đạo đang tu đúng chánh pháp…

− Một vị tu hành trong Phật đạo khi nhận thấy rằng đối với các pháp (quan niệm, khái niệm, nhận thức, biện biệt...) không còn che mờ để sanh tâm (buồn vui, thương ghét...). Và thấy được bổn tâm (bất động...). Thấy được bổn tâm là dấu hiệu để nhận ra rằng "tôi đã Chứng Diệt". Và “Chứng Diệt” chính là căn cứ để biết rằng một vị tu hành trong Phật đạo đang tu đúng chánh pháp.

Vì Phật đạo lấy trí tuệ làm sự nghiệp, cho nên một người tu hành trong Phật đạo sau khi đã giải quyết xong tự thân, thì vị này phải phát tâm Bồ Đề và cầu học trí tuệ gọi là học Nhất Thiết Trí. Học Nhất Thiết Trí kinh gọi là Tu Đạo.

Nhất Thiết Trí lấy gì làm pháp căn bản? Lấy Bát Chánh Đạo làm pháp căn bản.

Sao gọi là thành tựu Nhất Thiết Trí? Thành tựu Nhất Thiết Trí là thành tựu tất cả trí như một vị Phật, có nghĩa rằng: Cái gì Phật biết vị này biết, cái gì Phật chứng vị này chứng, cái gì Phật thấy vị này thấy... Cho nên, thành tựu Nhất Thiết Trí chính là căn cứ, để biết rằng một vị tu hành trong Phật đạo đang tu đúng chánh pháp. Khổ ĐếTập Đế thuộc “Thế Pháp”, nên chỉ có Giác Ngộ mới giải quyết được hai đế này. Còn Diệt ĐếĐạo Đế thuộc “Thánh Pháp”, nên trừ những vị thị hiện, còn phần lớn hai Đế này chỉ có Bậc Đạo Sư mới giải quyết được cho người tu hành trong Phật đạo.

2.− Nếu có những chúng sinh dù là Người, là Ngạ Quỷ hay Súc Sinh (như Quỷ La Sát hoặc trâu, bò...) mà trên bước đường tu hành của các chúng sinh này, đã tuyên thuyết hoặc đang thành tựu một hoặc đủ các điều đã nêu ở câu (1). Theo con, các Ngạ Quỷ, Súc Sinh đó rất xứng đáng để chúng ta kết thành Thiện Hữu (bạn lành), và rất xứng đáng để chúng ta lễ lạy. Vì, chúng ta làm điều này là đúng với tinh thần Đạo Pháp.

Trong Kinh Đại Niết Bàn phẩm Thánh Hạnh, Phật có nói về tiền thân Phật đã từng lạy con quỷ La Sát như sau: "Lúc Thích-Đề-Hoàn-Nhơn tự biến thân mình làm quỉ La-sát dung mạo đáng sợ, bay xuống núi Tuyết đến gần người tu khổ hạnh, cất tiếng thanh nhã tuyên nói nửa bài kệ của Phật quá khứ

           “Các hạnh vô thường, Là pháp sanh diệt…”

Quỉ La-sát nói nửa kệ xong liếc mắt tìm ngó bốn phía. Người tu khổ hạnh nghe hai câu kệ ấy lòng rất vui mừng, như người khách buôn ban đêm đến đường hiểm lạc mất đồng bạn, kinh sợ tìm kiếm bỗng gặo được đồng bạn, lòng rất vui mừng. Cũng như người bịnh lâu chưa gặp được lương y, về sau bỗng gặp được. Như người trôi nổi ngoài biển khơi bỗng gặp được thuyền bè. Như người quá khát gặp được nước mát trong. Như người bị oán-địch rượt mà chạy thoát được. Như người bi trói nhốt đã lâu bỗng đặng thả. Cũng như nhà nông trời nắng hạn mà gặp mưa. Như người đi xa trở về đến nhà, cả nhà đều vui mừng.

Nầy Thiện-nam-tử! Lúc nghe được nửa bài kệ ấy, lòng người khổ hạnh vui mừng cũng như vậy. Liền đứng dậy lấy tay đỡ tóc lên ngó tìm bốn phía nói rằng: “Chẳng biết ai vừa nói hai câu kệ? Ngó mãi không thấy người nào khác chỉ thấy quỉ La-Sát bèn nói rằng: “Ai khai môn giải thoát như vậy? Ai có thể thuật lời của Phật như vậy? Ai có thể ở trong giấc ngủ sanh tử mà có thể riêng được giác ngộ xướng lên lời đó vậy? Ai có thể ở chốn nầy đem đạo vị vô thượng chỉ dạy cho chúng sanh đang đói khát trong vòng sanh tử? Ai có thể làm thuyền lớn cứu vớt vô lượng chúng sanh đang nổi chìm trong biển sanh tử? Những chúng sanh nầy thường mang bịnh nặng phiền não, ai có thể làm lương y nói hai câu kệ ấy khai ngộ tâm của tôi. Như mặt trăng nửa như hoa sen hé nở.

Người khổ hạnh lúc đó không thấy có ai khác chỉ thấy quỉ La-Sát nghĩ rằng có lẽ quỉ nầy nói hai câu kệ ấy chăng? Rồi lại nghĩ rằng quỉ nầy hình dung hung dữ đáng sợ, phàm người đặng nghe những câu kệ ấy thời tất cả sự sợ sệt xấu xa liền tiêu trừ, đâu có lẽ người hình mạo xấu xa nầy mà có thể nói lời kệ ấy. Như trong lửa mọc được hoa sen. Trong ánh nắng mặt trời chẳng sanh được nước mát. Rồi lại tự trách: Ta thật là vô trí hoặc quỉ nầy đặng gặp chư Phật quá khứ, nên được nghe nửa bài kệ ấy, nay ta nên hỏi ý nghĩa của lời ấy. Suy nghĩ xong liền đến trước quỉ La-Sát nói rằng: “Lành thay lành thay! Đại-Sĩ! Ngài ở đâu mà học được nửa bài kệ của Phật quá khứ như vậy?

Quỉ La-Sát liền đáp rằng: “Nầy Bà-La-Môn! Ông chẳng nên hỏi ta về việc ấy. Vì ta đã nhiều ngày không được ăn đói khát khổ não tâm ý mê loạn. Ta tìm cầu khắp nơi vẫn chẳng được thức ăn. Vì thế nên ta nói những lời như vậy.”

Người khổ hạnh lại nói với quỉ La-Sát: “Nếu Đại-Sĩ có thể vì tôi nói trọn bài kệ, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử ngài. Kệ của Đại-Sĩ vừa nói lời chẳng đủ, nghĩa chẳng trọn, sao Đại-Sĩ chẳng nói cho trọn? Luận Về tài-thí thời có cạn hết, còn pháp-thí thời chẳng thể cùng tận, nhiều sự lợi ích. Tôi nghe nửa bài kệ ấy sanh lòng kinh nghi. Trông mong ngài vì tôi mà nói cho trọn, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử ngài”

Quỉ La-Sát nói: “Ông tham thái quá chỉ biết tự thương thân mình mà chẳng nghĩ đến người. Ta đương đói khổ thiệt không thể nói đặng”.

Người khổ hạnh hỏi: “Thức ăn của ngài là vật gì?

Quỉ nói: “Ông đừng hỏi, nếu ta nói ra thời mọi người phải kinh sợ”.

Người khổ hạnh nói: “Giữa đây chỉ có mình tôi không có người nào khác. Tôi không sợ, ngài cứ nói.

Quỉ nói: “Tôi chỉ ăn thịt người tươi nóng, chỉ uống máu nóng của người. Vì ta phước mỏng nên chỉ ăn những thứ đó. Ta tìm khắp các nơi mà chẳng đặng. Trong đời dầu có người đông nhiều, nhưng mỗi người đều có phước đức, lại được chư Thiên-Thần thủ hộ, ta không đủ sức bắt ăn được.”

Người khổ hạnh nói: “Ngài cứ nói đủ bài kệ ấy, tôi nghe kệ rồi sẽ đem thân nầy dâng cho ngài dùng. Thưa Đại-Sĩ nếu lúc tôi chết thân nầy sẽ không dùng vào việc gì được, sẽ bị cọp, sói, chim hiêu, kên kên ăn mổ, không được một mảy phước đức. Nay tôi vì cầu Vô-thượng Bồ-đề xả thí thân vô thường chẳng bền nầy, để đổi lấy thân thường trụ bền chắc”.

Quỉ nói: “Ai tin được lời của ông, chỉ vì có tám chữ mà thí bỏ thân đáng mến đáng tiếc.”

Người khổ hạnh nói: “Như có người đem đồ sành bố thí cho người khác mà đặng đồ bằng thất bảo. Cũng vậy, tôi xả thí thân vô thường nầy để đặng thân kim cương. Ngài nói ai tin được lời tôi?” Các vị Đại-Phạm-Thiên-Vương, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và Tứ-Thiên-Vương có thể chứng minh lời tôi. Lại có các vị Bồ-Tát tu hành Đại-thừa đủ lục độ, lợi ích vô lượng chúng sanh, có thiên nhãn cũng chứng biết được lời của tôi, Thập phương chư Phật cũng chứng biết cho tôi vì tám chữ mà xả thí thân mạng.

Quỉ nói: “Nếu ông có thể xả thí thân mạng như vậy, thời nên lóng nghe kỹ tôi sẽ vì ông nói nửa bài kệ sau”.

Người khổ hạnh nghe quỉ hứa nói vui mừng hớn hở, liền cởi tấm da nai đang mặc trên thân trải tòa rồi mời quỉ: “Bạch Hòa-Thượng xin thỉnh ngài lên tòa nầy”. Quỉ ngồi xong người khổ hạnh qùy dài, vòng tay thưa rằng: “Mong Hòa-Thượng vì tôi mà nói nửa bài kệ còn lại cho được đầy đủ”. Quỉ La-sát liền tuyên rằng:

               “Sanh-diệt diệt rồi, Tịch diệt là vui.”

Quỉ La-Sát nói hai câu kệ rồi bảo rằng: “Nầy Đại Bồ-Tát nay ông đã nghe đủ cả nghĩa bài kệ, lòng mong muốn của ông đã đầy đủ, nếu ông muốn lợi ích chúng sanh giờ đây nên thí thân cho ta.

Người khổ hạnh suy nghĩ kỹ những nghĩa trong bài kệ rồi biên chép lên trên đá, trên vách, trên cây, bên đường đi. Tự cột áo xiêm sợ sau khi chết thân thể lõa lồ rồi leo lên cây cao. Thọ-Thần bảo người khổ hạnh: “Lành thay! Nay ông muốn làm việc gì?

Người khổ hạnh đáp: “Tôi muốn thí xả thân nầy để trả giá bài kệ”.

Thọ-Thần nói: “Bài kệ như vậy có những lợi ích gì?”

Người khổ hạnh đáp: “Những câu kệ ấy là lời thuyết pháp của Phật ba đời, trong ấy chỉ dạy đạo pháp chơn không. Tôi vì pháp nầy muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà thí xả thân nầy, chẳng phải vì lợi danh, chẳng cầu Chuyển-Luân-Thánh-Vương, Tứ-Thiên-Vương, Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương, chẳng cầu quả vui của người của trời.

Lúc sắp sửa xả thân, người khổ hạnh nói rằng: “Nguyện cho tất cả người tham lam bỏn sẻn đều thấy tôi xả thân. Những người bố thí chút ít sanh lòng cống cao cũng đặng thấy tôi vì một bài kệ mà xả thân mạng.

Nói xong, người khổ hạnh buông mình từ trên cây rơi xuống. Lúc thân chưa tới đất. Trong hư không vang ra các thứ tiếng thấu đến cõi trời Sắc-Cứu-Cánh. Quỉ La-sát huờn lại hình Thiên-Đế hứng lấy thân người khổ hạnh để nhẹ nhàng xuống đất.

Bấy giờ Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, Đại-Phạm-Thiên-Vương cùng chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh mà khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiệt là Bồ-Tát có thể lợi ích nhiều cho vô lượng chúng sanh, muốn thắp đuốc pháp lên giữa đêm tối vô minh. Vì tôi mến tiếc pháp lớn của Như-Lai nên cố nhiễu não ngài. Ngưỡng mong ngài cho tôi sám hối tội lỗi. Thuở vị lai ngài quyết định thành Vô- thượng Chánh-giác. Khi được thành Phật, mong ngài tế độ chúng tôi” … Nói xong, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh, cáo từ, bỗng nhiên ẩn mất.

Nầy Thiện-nam-tử! Người khổ hạnh thuở xưa chính là tiền thân của ta. Ngày trước vì nửa bài kệ mà ta xả thí thân mạng. Do cớ đó ta đặng vượt bực thành Phật trước Di-Lặc mười hai kiếp."[[1]]

* Trả lời về Thế GianXuất Thế Gian Đạo

1− Khái niệm Thế Gian và Xuất Thế Gian trong Phật đạo chỉ nhằm nói đến tâm thức, không nói đến hình tướng bên ngoài...

2− Như trên có đề cập đến ba điều: Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ, thì những đặc điểm cơ bản của người thành tựu Đạo Xuất Thế có được, chính là kết quả từ Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ mà có... Thầy Lý Tứ đã nói: “Những dấu hiệu để ta có thể cảm nhận được rằng đây chính là tâm thế của một người giác ngộ:

1) Kiết sử tự mất, không còn tham sân si. 

2) Không dụng công mà thiền vẫn tự được, thường sinh hỷ lạc, thường thấy khinh an, không còn sợ hãi. 

3) Các thứ tiểu tâm bỗng dưng biến mất, như trời không mây (Đố kỵ, ganh ghét, bè phái, phiền não...). 

4) Thích độc cư thiền định, chẳng ưa bầy đàn, chẳng ham tranh đấu. 

5) Không thích chuyện đời, tránh xa thị phi phải quấy, chỉ thích tụng đọc, nghe thuyết, trao đổi Phật Pháp. 

6) Có tâm ít muốn biết đủ, không có tâm mong cầu. 

7) Thường sinh tâm vui mừng khi biết được có người vừa mới giác ngộ, giống như loài sư tử vui mừng khi biết rằng đang có sư tử con ra đời... Nếu, khi nghe có người giác ngộ mà sinh tâm muộn phiền tật đố, phải biết cái tâm mèo chó hãy còn, nếu giữ tâm này, rất khó giác ngộ. 

8) Không có tâm làm thầy, vì chẳng ưa danh tướng. 

9) Tôn trọng chân lý, thường hay sinh trí tu, chẳng khởi niệm vô minh. 

10) Niết Bàn an vui chính là ngôi nhà, là nơi người giác ngộ an trú. 

  • Người thành tựu Đạo Xuất Thế thì tâm bất động, ý giải thoát. Còn người ở trong Đạo Thế Gian thì tâm như khỉ, ý thì như ngựa, kinh gọi là "tâm viên ý mã".
  • Người thành tựu Đạo Xuất Thế thì chỉ tồn tại vì Chân Lý, vì Đạo Pháp. Vì thế, có nói hay nín chỉ vì lợi ích cho người. Còn người ở trong Đạo Thế Gian thì lúc nói hay nín chỉ vì cái tôi, cái ta, cái ngã...
  • Người thành tựu Đạo Xuất Thế thì thân, khẩu, ý luôn hành động theo trí tuệ. Còn người ở trong Đạo Thế Gian thì thân, khẩu, ý chỉ hành động theo tham dục.

Kính Thầy chỉ dạy thêm cho con. Con xin lễ Thầy ba lạy. Con.

------------------------------

[[1]] Trích Kinh Đại Bát Niết Bàn; Tập 1, Phẩm Thánh Hạnh (thứ 19). Hán dịch Việt_TK. Thích Trí Tịnh.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG