Khái Niệm Bốn Tướng

Nếu bảo rằng nghĩa không để sạch hóa nguồn tâm thì bốn tướng là phương thức sạch hóa cái thấy. Khi tâm đã sạch mà thấy chưa sạch thì chưa thể gọi rốt ráo sạch.
Nếu như ba thừa được chuẩn hóa bằng học thuyết: “Hết thảy do tự tâm hiện” để làm tiền đề vào nhất thừa, hay học thuyết này quy kết: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” thì ý nghĩa bốn tướng chính là sự giải oan cho tâm và pháp.
Sự giải oan này là tối cần thiết để ba thừa thành tựu đạo nhất thừa. Giống như mọi con sông khi vào biển lớn thì mất dấu và mất tên. Ba thừa vào biển đại giác cũng như vậy.
Cộng tướng và biệt tướng phải đồng thanh tịnh gọi là nhất tướng và nhất tướng viên mãn gọi là vô tướng, trong vô tướng mới thấy thiệt tướng. Giống như người thợ điêu khắc tài ba, khi nào không còn thấy gốc cây mới thấy cái tượng.
- Bốn tướng gồm:
-Ngã tướng;
-Nhân tướng;
-Chúng sanh tướng;
-Thọ giả tướng.
Ngã tướng và nhân tướng là hai tướng đối đãi được ba thừa trừ sạch trong thời kỳ tu phương tiện.
Hai tướng ngã nhân do tu tập mà diệt, hai tướng này chỉ hoàn toàn sạch khi vào thánh quả vô lậu.
- Tướng ngã.
Là tướng nhận biết có ‘cái Ta’. Tướng ngã dứt, không còn chủ thể và không bị chủ thể làm mê mờ (ngã không hiện).
- Tướng nhân.
Là tướng thấy có mình người, thấy có tu chứng và quả vị đạt được, như… mình chứng và người chưa chứng.
Dứt hai tướng căn bản, tính chất nhị nguyên của một chúng sanh đã hết, nhưng tập khí vô lậu vẫn còn. Tập khí vô lậu chính là hai tướng ‘chúng sanh’ và ‘thọ giả’.
Trong kinh có kể câu chuyện khi Đề Bà Đạt Đa xúi vua A Xà Thế thả năm trăm con voi say để càn đạp Đức Phật và tăng đoàn. Khi năm trăm con voi hung dữ chạy đến, những vị có thần thông bay lên hư không, còn các vị hữu học không có thần thông khóc la kinh hãi, chỉ duy Phật vẫn tự tại. Các Tỳ Kheo hàng hữu học kinh sợ voi say vì còn phàm phu, tại sao các vị đã chứng A La Hán được liệt vào hàng thánh sợ cái gì mà bay lên hư không? Giải mã vấn đề này sẽ thấy được vì sao có hiện tượng nêu trên.
A La Hán tuy chứng thánh nhưng hai tướng chúng sanh và thọ giả chưa trừ sạch gọi là tập khí vô lậu. Học thuyết bốn tướng ra đời giải quyết hai tướng sau cùng này.
Ba thừa tu pháp phương tiện chỉ giác ngộ nhân không, nhưng đối với các pháp thì chưa không. Chính pháp chưa không nên phải đợi giác ngộ lần nữa để dứt đảo kiến, đảo kiến có dứt thiệt tướng mới hiện.
Ba thừa chưa giác pháp không, nên bị giả tướng làm ngại. Nơi hư không mà thấy thành voi say.
Voi say chỉ là tập khí mê lầm do tự tâm biến hiện, nếu còn thọ các thứ giả tướng (pháp do lầm tưởng) thì chúng sanh tướng đương nhiên có mặt.
Sự có mặt của chúng sanh tướng là thứ tập khí vô lậu mà các A La Hán phải bay lên hư không chứ không phải sợ con voi say. Phật thì thấy thiệt tướng nên nỗi hãi sợ vô lậu không còn. Trong kinh Phật thường dạy: “Thiệt tướng là nhất tướng, nhất tướng là vô tướng,” cho nên chưa thấy thiệt tướng thì giả tướng hiện là điều đương nhiên.
Như Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc chứng A La Hán vẫn thường soi gương, Phật bảo đây là tập khí đời trước không phải Tỳ Kheo Ni này ham thích đẹp xấu.
- Chúng sanh và thọ giả tướng là hai tướng khó trừ.
Ví như có người đã đắc thiền định nhưng đêm khuya trong rừng vắng nghe tiếng lá cây cọ nhau xào xạc, hay tiếng thú gầm thân nổi gai ốc. Nghe các thứ tiếng là thọ giả tướng, toàn thân nổi gai ốc là chúng sanh tướng.
Hai tướng này vi tế khó trừ, tuy đã chứng thánh nhưng bất ngờ có điều gì đó xảy ra vẫn bị giật mình mặt mày biến sắc. Giật mình mặt mày biến sắc không phải do sợ hãi mà chỉ vì hai tướng trên vẫn còn tồn tại tiềm ẩn trong tâm. Muốn trừ sạch hai tướng này, phải quán pháp vô ngã, bao giờ trí tuệ thành tựu rốt ráo hai tướng này mới dứt. Đây là giai đoạn mài dũa một viên ngọc từ thô thành ngọc sáng.
Hư không lầm tưởng voi say là giả tướng. Không còn sợ hãi mà bay lên hư không là chúng sanh tướng. Hai tướng này chỉ hết khi nào rốt ráo giác ngộ thiệt tướng của vạn pháp.
Muốn giác ngộ thiệt tướng, ba thừa phải giác ngộ pháp như huyễn để huyễn tâm và huyễn pháp cùng sạch. Khi sạch hai pháp này tự chứng phi huyễn, nghĩa “cũng huyễn cũng không huyễn” sẽ hộ trì hai tướng này thanh tịnh.
108 câu hỏi của ngài Đại Huệ trong kinh Lăng Già là một ví dụ, các pháp do tự tâm hiện. Khi tự tâm dứt tại sao các pháp vẫn còn, đây là tiền đề để 108 câu của ngài Đại Huệ cầu thỉnh Thế Tôn chỉ dạy. Phật dùng một chữ “phi” để giải quyết, có nghĩa các pháp chẳng phải pháp (pháp phi pháp) có thể hiểu nôm na bằng câu nói: “Thấy vậy chứ không phải vậy.”
Lưu ý câu này là câu nói mượn của đời để làm ví dụ minh họa, thế gian nói câu này với ý nghĩa khác không nhằm ám chỉ thấy được phi huyễn.
Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên như trùng đục cây thành chữ. Kinh Viên Giác, Đại Bát Nhã, Lăng Già ra đời để giải quyết phần thừa sót của ba thừa sau khi chứng thánh. Rốt ráo thanh tịnh hai tướng sau sẽ thấy thiệt tướng (voi phi voi). Thấy thiệt tướng là tiền đề quan trọng để thành tựu Bát Nhã trí hay nhất thiết trí vì khi học trí này, tâm và pháp phải sạch.
- Do đó làm sạch bốn tướng là điều kiện cần có. Thiện tri thức là điều kiện để đủ. Thiếu một trong hai điều này rất khó thành tựu. Đó là lý do vì sao bốn tướng đề cập thường xuyên trong các kinh đại thừa. Bởi giải quyết bốn tướng là một phần không thể thiếu. Trong thánh pháp:
- Dứt bốn tướng mới được gọi là chánh tri kiến.
∙ Tư duy không bốn tướng mới được gọi chánh tư duy.
∙ Ngôn thuyết không tứ cú mới được gọi chánh ngữ.
∙ Không còn bốn bệnh mới được gọi chánh nghiệp.
∙ Đủ ba thân mới được gọi chánh mạng.
∙ Biết khắp các môn giải thoát mới được gọi chánh tinh tấn.
∙ Thấu suốt các phương tiện mới được gọi là chánh niệm.
∙ Không thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề mới được gọi là chánh định.
Khái niệm bốn tướng gồm đủ hai phần là ‘thế pháp’ và ‘thánh pháp’.
Nếu như thánh pháp trừ bốn tướng bằng bốn đại phương tiện tu hành và giác ngộ triệt để năm pháp để trừ sạch tâm hiện lưu (biến thể của bốn tướng), thì thế pháp dùng bốn tướng để tăng ích trong quá trình làm mỏng nhẹ phàm tâm.
Bốn tướng của thế pháp ý nghĩa không giống thánh pháp. Bốn tướng của thế pháp được giảng giải là: ‘Nhân, ngã, chúng sanh, và thọ mạng’.
Giải thích của thế pháp y ý nghĩa văn tự, là thứ công cụ xây dựng phần thô một công trình. Ví dụ như xây nhà, trước tiên người ta xây thô, tức phần cơ bản một ngôi nhà gồm nền móng, cột đà, tường, vách, phần xây dựng này giống như bốn tướng của thế pháp. Sau đó để hoàn hảo tòa nhà người ta tô vữa, trang trí các họa tiết và sơn phết, phần này giống khái niệm bốn tướng trong thánh pháp, tức ‘làm mất đi sự hiện diện của phần thô’. Và cuối cùng là trang trí nội thất để đủ tiện nghi sử dụng, phần này giống như học nhất thiết trí. Thành ra bốn tướng có cách hiểu và cách ứng dụng rất khác nhau. Mỗi phần ứng dụng tương ứng với một cách hiểu, không thể lấy cái hiểu này để ứng dụng trong công việc khác.
Trong bài viết này không phân tích bốn tướng của thế pháp, phân tích sẽ thừa và rất vô ích vì trong giới tu hành hầu hết không ai không biết phần này. Giống như đã là thợ hồ thì không thể không hiểu biết phần xây thô một công trình.
Đoạn kinh trích sau đây sơ lược về bốn tướng thế gian và xuất thế:
“Khi các huyễn cảnh diệt rồi, thì cái huyễn tâm của hành giả cũng theo đó diệt. Đến khi các huyễn (năng và sở) đều diệt hết, thì Viên Giác không vọng động tự hiện.
Bởi đối với vọng huyễn mà nói "Viên Giác" nên Viên Giác cũng trở thành vọng huyễn, vì còn ở trong vòng đối đãi vậy. Đến cảnh giới này, nếu nói "có Viên Giác" thì chưa rời vọng huyễn đã đành, mà nói là "không Viên Giác" thì cũng chẳng rời được vọng huyễn.
Thế nên, các vọng huyễn đều phải bị diệt hết, mới gọi là Viên Giác….
Này Thiện nam! Vì "huyễn thân" của chúng sanh kia diệt, cho nên "huyễn tâm" cũng diệt; do "huyễn tâm" diệt, cho nên cái "huyễn trần" cũng diệt; do "huyễn trần" diệt, nên cái "huyễn diệt" đó cũng diệt luôn.
Bởi thân tâm là tướng trần cấu hư huyễn đã hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tánh "Viên Giác phi huyễn" hiện ra, thanh tịnh khắp cả mười phương. Thí như lau gương khi bụi hết thì gương sáng tự hiện bày.
Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh, không có con mắt trí huệ, nên không tự thấy cả thân tâm này đều là Vô minh. Vì ngã tướng (thân tâm) do Vô minh sanh, nên chúng sanh không thể tự tiêu diệt ngã tướng, cũng như người không thể tự sát chính mình.
Bởi chấp thân này là Ta, nên cảnh nào thuận với Ta thì sanh ra thương yêu; còn cảnh nào nghịch với Ta thì lại sanh ra oán ghét. Do tâm thương ghét này, trở lại tiếp tục nuôi dưỡng Vô minh. Vì thế nên chúng sanh cầu Đạo, đều không thành được Đạo.
Này Thiện nam tử! Thế nào là "Ngã tướng?"
Tất cả chúng sanh tự tâm chứng nhận biết có Ta vậy. Thí như có người thân thể điều hòa không có chút gì trái ý, tợ hồ như quên mình. Đến khi điều dưỡng bị thất thường, thân thể mất thăng bằng, hoặc gặp phải những cảnh trái nghịch, như gai đâm hay lửa đốt v.v..., lúc bấy giờ mới thấy cái Ta (ngã tướng) hiện ra rất rõ rệt. Vì thế mà chứng biết có cái Ta.
Này Thiện nam tử! Sâu thêm một từng nữa, cái Ngã tướng có phần vi tế hơn trước, là người tu hành, trong lúc thấy mình có chứng quả, có đắc đạo. Cho đến khi chứng quả Như Lai, hay đặng Niết Bàn thanh tịnh của Phật, mà nếu còn cái tâm biết mình có chứng và có đặng, như thế cũng đều còn "Ngã tướng."
Này Thiện nam tử! Thế nào là ‘Nhơn tướng’?
Tất cả chúng sanh, tự tâm hiểu ngộ Ta đây là người vậy (nhơn tướng), nghĩa là hiểu ngộ Ta là người và các ngươi cũng là người (nhơn tướng). Nói rộng ra, hiểu ngộ ngoài Ta (ngã) thì tất cả đều là người vậy.
Này Thiện nam tử! Đi sâu vào một từng nữa, cái "nhơn tướng" có phần vi tế hơn, là cái tâm này, cho đến hiểu ngộ rằng: "Còn biết mình viên ngộ Niết Bàn," cũng đều còn Ngã tướng; nghĩa là ở nơi tâm, nếu còn một chút ngộ rằng: "Chứng lý đầy đủ," thì đều gọi là "Nhơn tướng."
Này Thiện nam tử! Thế nào là Chúng Sanh tướng?
Tất cả chúng sanh ở nơi tự tâm không còn chấp mình là Ngã và Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Tỷ như có người nói như thế này: "Tôi đây là chúng sanh." Bởi thế nên biết: Người kia nói "Tôi là chúng sanh" thì biết không phải Ngã và Nhơn.
Này Thiện nam tử! Những chúng sanh rõ biết hai món tướng trước (sở chứng, sở ngộ) là thuộc về Ngã và Nhơn, nay không còn chấp Ngã, Nhơn nữa; nhưng còn cái "tâm rõ biết," đó là Chúng Sanh tướng.
Này Thiện nam tử! Thế nào là Thọ Mạng tướng?
Các chúng sanh tâm chiếu soi (phân biệt) đã thanh tịnh, nhưng còn cái trí giác ngộ tưởng chúng sanh trước (giác sở liễu giả). Bởi còn có cái "trí giác ngộ," tương tục tu tập các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự trừ được; cũng như mạng căn tương tục, không tự đoạn được, nên gọi là "Thọ Mạng tướng."
Này Thiện nam tử! Nếu còn tâm soi thấy (biết) tất cả cái giác (biết) trước (3 tướng trên) đó thì cũng còn ở trong vòng trần cấu (tâm pháp chưa trong sạch). Bởi còn năng giác và sở giác nên chưa rời trần cấu vậy.
Cũng như nước nóng làm tiêu băng, thì toàn băng là nước, lúc bấy giờ không còn nước nóng(năng) tiêu và băng(sở) bị tiêu nữa. Nếu còn chút nước nóng và băng, thế là nước chưa thuần nhứt.
Cũng thế, nếu còn cái Ta để giác ngộ cái Ta trước, thì chưa rời được bốn tướng.
Này Thiện nam tử! Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả.
Tại sao thế? Bởi nhân các ngã tướng: Có chứng có ngộ, cho là thành tựu quả Niết Bàn. Chẳng khác nào người nhận giặc làm con, nó sẽ phá tan gia tài quý báu vậy.”[[1]]
[[1]] Trích kinh Viên Giác –HT. Thích Thiện Hoa dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






