Giác Ngộ Chánh Đạo; Đốn; Tiệm… Là Gì?

 0
Giác Ngộ Chánh Đạo; Đốn; Tiệm… Là Gì?

Hỏi: Nếu nói rằng, nhân những lời khai thị mà được Giác Ngộ, thấy Chánh Đạo thì người tu hành trong Phật Đạo không cần “ngồi tu” hay sao?

Đáp: Ai bảo rằng, trong Phật Đạo không cần ngồi tu?

Hỏi: Đã Giác Ngộ rồi thì ngồi tu mà làm gì?

Đáp: Ngồi tu để biến cái Giác thành cái Ngộ. Ngồi tu để thực chứng cái Nghe thành cái Thấy. Ngồi tu để nhân cái Ngộ thành cái Nhập.

Giống như trong khoa học, công nghệ,… trước tiên phải học lý thuyết, kế đến thực tập và cuối cùng là ứng dụng vào đời sống. Nếu một người chưa nắm vững lý thuyết hoặc lý thuyết không đúng, thì làm sao thực hành? đã không thực hành được thì làm gì có thể ứng dụng thực tiễn những điều đã học vào đời sống?

Vì thế, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa1, Phật mới nói: Đại sự nhân duyên Phật ra đời là để khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến cho chúng sanh”.

  • Có nghĩa rằng, trước khi có được Phật tri kiến để ứng dụng vào đời sống tu hành, người đó phải được nghe Phật tuyên thuyết nhằm khai mở tâm trí, gọi là “khai”.
  • Kế đến tìm nơi vắng vẻ, tư duy cho thấu đáo nghĩa lý gọi là “thị”, thị là thấy rõ vấn đề, không còn gì mù mờ.
  • Thấy xong, người này làm cho cái đã thấy tương ưng với tâm trí, biến ý nghĩa đã thấy thành chính tâm này và trí này gọi là “ngộ”.
  • Cuối cùng, vị ấy là tri kiến, tri kiến là vị ấy. Tri kiến với đời sống của vị ấy không hai, không khác, gọi là “nhập”.

Vì thế, chuỗi trình tự “khai, thị, ngộ, nhập” được hoàn thành trong quá trình văn, tư, tu.

Cũng chính quy trình không thể đảo ngược này, mà Tứ Diệu Đế mới xếp theo thứ tự: thấy Khổ, dứt Tập, chứng Diệt và cuối cùng là tu Đạo. Cho nên, cứ cắm đầu cắm cổ ngồi nghe; ngồi mà không hiểu biết, hoặc hiểu biết chưa thấu đáo; khi cái sự ngồi rỗi ấy trở thành thành tựu, thì sự vô minh cũng theo đà đó mà trở thành một thứ thành tựu.

Ngày xưa, các Thánh đệ tử nghe Phật thuyết xong một thời kinh, người tâm trí nhạy bén, ngay đó đắc đạo. Người tâm trí bậc trung, nghe xong mà chưa thấu đáo ý nghĩa để ứng dụng, liền đi đến gốc cây, đi đến nhà trống, đi đến miếu hoang, ngồi xuống chiêm nghiệm lời Phật dạy, đến khi thấu đáo mới đứng lên. Có những người tâm trí chậm chạp, vào thẳng hang sâu, chìm đắm trong tư duy, năm ngày nửa tháng, ăn ngủ không rời những điều đã được nghe, gọi là đặt chánh niệm trước mặt”, cứ như thế, cứ như thế. Đến bao giờ thấu suốt mới đứng dậy…

Cũng lời kinh đó, người thấu suốt liền, ứng dụng được liền, Phật Đạo gọi là đốn. Người chậm chạp, năm bảy ngày sau mới thông, gọi là tiệm. Tiệm (chậm) hay đốn (nhanh) là do căn trí của từng người, chứ chẳng phải do pháp. Một pháp, một lời thuyết, tự nó chẳng có chậm hay mau.

Hỏi: Như vậy vì sao lại có người dạy “Đốn Giáo”?

Đáp: Người dạy chứ không phải Phật dạy, thì hơi sức đâu mà đi bàn luận.

Hỏi: Kinh nào Phật nói rằng, người tu hành có đốn có tiệm?

Đáp: Kinh nào cũng đầy đủ hình ảnh như thế.

Kinh Lăng Già Bồ Tát Đại Huệ hỏi Phật: Như Lai, thành thục tâm hiện lưu của chúng sanh là đốn hay tiệm? Phật đáp: Cũng đốn cũng tiệm. Đốn như gương sáng, đốn soi các sắc tượng, tiệm như trái A Ma Lặc chín từ từ”.

Cho nên, để khiến một hữu tình chấm dứt tâm hiện lưu, mau hay chậm, tùy thuộc vào tâm cơ của người đó, chứ chẳng phải do pháp. Ngày xưa, cũng câu Kinh Kim Cang2, Huệ Năng3 nghe xong tức thì Giác Ngộ. Ngược lại, Tú Đại Sư4 tụng đọc kinh đó một đời, cuối cùng cũng chỉ “thời thời thường phất thức”. Không lẽ, Ngũ Tổ không biết dạy người đốn giáo hay sao mà để cho Đại đệ tử của mình là Thần Tú lau chùi cái tâm hằng ngày. Chẳng lẽ, Đức Phật không biết đốn giáo hay sao mà phải trầy trật mới có thể khiến cho Bàn Đặc Ca5 chứng Thánh? Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ cũng có nói: Pháp không có đốn tiệm, mê ngộ có chậm mau”.

Vua A Xà Thế 6 hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Một người tu tập trong Phật Đạo, chừng bao lâu mới thành tựu?”. Phật đáp: “Có người phải mất 30 năm, có người mất 10 năm, có người một năm, có người sáu tháng, có người một tháng, có người mười ngày, có người một ngày, có người sáng nghe pháp chiều chứng, có người tối nghe pháp khuya chứng…”. Đây chẳng phải là minh chứng về đốn, tiệm trong Phật Đạo hay sao!

Tóm lại, chuyện “đốn, tiệm” và “văn, tư, tu” trong Phật Đạo, chúng ta có thể hiểu bằng ví dụ sau: Học trò học toán, khi được nghe giảng bài, có học sinh hiểu liền tại lớp, có học sinh về nhà nghiền ngẫm giáo khoa và nhớ lại lời thầy cô đã dạy, sau đó mới hiểu. Để vận dụng tốt kiến thức vừa học, học sinh đó cất công giải các bài tập; giải xong tất cả các bài tập liên quan đến kiến thức vừa học, thì mới nắm vững và nhớ kĩ được kiến thức, đến lúc đó, dù lâu lâu mới dùng tới, cũng chẳng quên được. Sau này, gặp những bài toán ở dạng như vậy, học sinh đó giải quyết không sai sót. Việc học, việc tu, gẫm ra cũng chẳng khác nhau là mấy.

Hỏi: Vì sao lại nói Giác Ngộ Chánh Đạo?

Đáp: Một chữ Giác Ngộ thôi chưa nói lên điều gì, vì rằng trong đời, người ta giác ngộ nhiều thứ, và những thứ họ giác ngộ chưa chắc đã là chân chánh trong Phật Đạo.

Cho nên, để minh bạch, trong luận này tạm nói: Giác Ngộ Chánh Đạonhằm phân định giác ngộ nào là chánh, giác ngộ nào là tà. Vì rằng, người Giác Ngộ chân chánh, sẽ thành tựu tám điều chân chánh, gọi là Bát Chánh Đạo. Tám điều chân chánh gồm:

  • Chánh Kiến: Thấy biết thanh tịnh.
  • Chánh Tư Duy: không suy lường hư vọng.
  • Chánh Ngữ: nói lời khiến mình, khiến người mở trói.
  • Chánh Nghiệp: thân, khẩu, ý tịch tĩnh, thanh lương.
  • Chánh Mạng: đời sống và Trí Tuệ không hai
  • Chánh Tinh Tấn: tiến về trí tuệ vô thượng trên thanh tịnh đạo lộ.
  • Chánh Niệm: nhất niệm tương ưng huệ.
  • Chánh Định: đi, đứng, nằm, ngồi, thức, ngủ… chẳng rơi vào tà nẻo7.

Còn những ai, cũng nói rằng mình Giác Ngộ, mà không thành tựu tám điều nêu trên thì không thể gọi là Giác Ngộ Chánh Đạo.

Hỏi: Tôi có quen nhiều người tu hành, ngồi lại với nhau, họ thường bàn về “kiến tánh” 8; hầu như ai cũng giành phần rằng: mình đã thấy tánh. Thậm chí, nói xuôi nói ngược gì, nhất định cũng muốn đánh tiếng xa gần để mọi người biết rằng mình đã kiến tánh.

Kiến tánh trong Phật Đạo như thế nào, tốt xấu ra sao, mà người tu hành nào cũng hô hào mình thấy tánh?

Đáp: Kiến tánh hay thấy tánh trong Phật Đạo là người tu hành được thứ quý giá nhất. Nếu đem kiến tánh so với vật chất thế gian thì kiến tánh quý hơn hột xoàn kim cương, quý hơn trên mười tấn đồng đen, đồng lạnh. Vàng, bạc, bạch kim so với mấy thứ này, là đồ bỏ đi.

Tôi có thể cho ra một ví dụ để ông hiểu giá trị của kiến tánh. Một cái bàn ủi than con gà hồi Tây mới đem qua xứ ta có 12 lỗ làm bằng đồng lạnh, nặng chừng trên một ký. Hiện nay, giá một vật như vậy lên đến cả tỷ và có nhiều người lùng sục tìm mua, vậy mà chẳng thể tìm ra. Ông thử nghĩ xem, năm mười tấn thì giá của nó là bao nhiêu?

Nhưng ở đời thì ngược lại, nó rất tréo ngoe. Ông lên mạng, nhất định thấy người ta rao bán cả đống. Ông tin tôi đi, mấy thứ đó toàn là đồ giả thôi. Mấy người có kim cương, hột xoàn, bàn ủi con gà mười hai lỗ thứ thiệt sợ bị dòm ngó, nên nín khe; ai hỏi thì chối đây đẩy rằng không có, không biết. Có cái quý, nhất định người ta giấu biệt, còn mấy tay gặp ai cũng khoe mình có hột xoàn, kim cương, bàn ủi con gà mười hai lỗ thì thường là nói phét, hoặc xài đồ “Made in… Chợ Lớn.” Tôi nghi mấy ông bạn ‘thích khoe khoang của ông’ nói thấy tánh cho vui cái miệng, chớ thiệt họ chẳng có “hàng độc” này đâu. Nếu điều họ nói là thật, nhất định họ sẽ đem giấu biệt ngàn, gặp ai cũng chối rằng: chưa biết, chưa thấy. “Thấy tánh” là đồ quý trong đời, ai lại đem khoe tùm lum như thế! Chắc là hàng giả, hàng dỏm đó ông ơi!

Hỏi: Đời thì “giả khoe, thật che”… Còn trong đạo, nhất định phải khác chứ?

Đáp: Ông lại ngây thơ nữa rồi. Trong đạo có khác chi đời, tôi nói có sách mách có chứng…

Ngày xưa, sau khi Lục Tổ Huệ Năng thấy tánh, mừng quá, liền la lớn, Ngũ Tổ 9 biết đệ tử của mình gặp được của quý, nếu còn ở Huỳnh Mai10 thì bọn ác cũng sẽ kiếm cách hại mà chiếm đoạt.

Cho nên nửa đêm, ngài chờ mọi người đi ngủ, bèn âm thầm lặng lẽ lấy chiếc xuồng ba lá, nhè nhẹ, rón rén dẫn Lục Tổ ra phía sau, nhằm sông Cửu Giang mà chèo đi tuốt. Trên đường đi, sợ đệ tử của mình không biết giữ gìn, ngài dặn dò phải lẩn trốn thiệt kỹ, kẻo bọn ác tìm thấy tông tích mà chiếm đoạt món quý đó. Lại còn kê miệng nói nhỏ: “Có cái này, thì làm thầy của trời và người (Thiên-Nhân Sư)”. Sáng hôm sau, thấy Ngũ Tổ nằm miết trong phòng, mọi người đến hỏi. Ngũ Tổ bèn nói: “Đêm hôm không biết ai lấy mất cái cục kiến tánh”, thế là mọi người đổ xô đi tìm.

Nói về Lục Tổ, xách cái cục kiến tánh trên tay, thân thì ốm yếu, nên đến núi Đại Dũ hết hơi, bèn ngồi đó mà thở. Ông có biết thiên thạch, tức là thứ đá ngoài vũ trụ người ta trưng bày ở Cơ quan Không gian Hoa Kỳ “nặng là hèn chi” 11; nặng như vậy mà cũng chẳng thấm tháp gì so với cái cục kiến tánh. Nghe đâu, một cục kiến tánh nặng gấp tám mươi bốn ngàn lần thiên thạch cùng kích thước. Mang cái thứ đó, trâu cũng chết chớ đừng nói chi Huệ Năng. Trong cái rủi có cái may, lúc đó Đạo Minh 12 đuổi kịp. Y trước đây là một võ tướng, nên sức mạnh kinh người, vai u thịt bắp, thế mà khi thấy cục kiến tánh trước mặt, y vận mười hai thành công lực cũng nhấc không lên. Hồi nhỏ đến lớn, Đạo Minh chưa thấy cục kiến tánh bao giờ, nên đâu có biết sức nặng kinh hồn của nó.

Phàm ở đời, cái gì quá sức với con người, thì sẽ khiến người đó hồn xiêu phách lạc. Đạo Minh cũng không ngoại lệ.

Nhấc không lên, y tưởng là trong đó có sức mạnh của thần linh, nhờ đó mà Huệ Năng thoát nạn. Chuyện sau này như thế nào, chắc người tu hành ai cũng biết, nên không kể ở đây.

    Ông thấy đó, giá trị của kiến tánh có sức hấp dẫn đến như vậy. Người trong chùa còn ham, huống chi hàng cư sĩ tép tôm. Thành ra, việc khoa trương mình có cho thiên hạ biết mà ghê chơi chỉ là “chuyện thường tình thế thôi”, đâu có gì là lạ. Cũng chính cái giá trị kinh hồn này, mà 15 năm, Lục Tổ phải trốn trong đám thợ săn. Đợi đến lúc, chuyện về cục kiến tánh rơi vào lãng quên, Lục Tổ mới dám bỏ đám thợ săn đi Ta Bà giáo hóa. Thân làm Tổ mà đối với chuyện mình kiến tánh cũng nín khe, chẳng bao giờ dám mở miệng nói rằng: “Mình đã kiến tánh!”. Đến Tổ mà còn giấu kỹ như vậy, thì phải biết nó quý thế nào.

    Hỏi: Không phải mọi người chạy theo Lục Tổ để đoạt y, bát 13 hay sao?

    Đáp: Ông lại ngây thơ nữa rồi. Tôi hỏi ông, cái y cũ và cái bát bằng sành thì giành giựt làm chi cho mang tiếng ác? Ngay như bây giờ, có ai đem biếu cho ông cái y mới và cái bát bằng đồng cáu cạnh, ông có lấy hay không, nói thiệt cho tui nghe đi?

    Hỏi: Tôi lấy mà làm gì, đồ của chùa, đem về nhà đặng bị vợ cằn nhằn tối ngày chịu sao thấu.

    Đáp: Bí mật là ở chỗ đó. Tôi nói nhỏ cho ông nghe, nghe rồi đừng nói ai biết, chỗ thân tình tôi mới kể chuyện bí mật này.

    Hỏi: Xin hãy nói cho tôi mở rộng tầm mắt. Tôi thề giữ kín, nếu tôi mà có nói ra cho người thứ ba biết, xin đời đời không thể có được cái bàn ủi con gà 12 lỗ của Tây làm bằng đồng lạnh.

    Đáp: Đã vậy thì tôi xin kể. Cái bát bằng sành đó, dưới đáy có hai lớp, lớp trên đựng đồ ăn, lớp dưới giấu… cái kiến tánh. Ai biết được bí mật này, nhất định có ngày sẽ kiến tánh. Vì thế, chớ có dại miệng!

    Hỏi: Thời nay, sự thật có ai thấy được cái cục “kiến tánh” đó không?

    Đáp: Toàn là nói phét. Sau đời Lục Tổ, cái bát đó có lẽ bị đem bán phế liệu rồi, nên chẳng còn nghe tung tích gì nữa.

    Hỏi: Thế thì đối với bọn hay khoe khoang nói phét, làm sao biết được đồ thật hay giả?

    Đáp: Dễ thôi mà. Chỉ cần ông hỏi vài câu, nếu nói được thì biết lời đó là thật, còn ú ớ như gà mắc tóc, thì biết chỉ toàn bốc phét cho vui.

    Hỏi: Xin hỏi vài câu đó như thế nào?

    Đáp: Chỉ cần hỏi hai câu.

    • Câu thứ nhất: “Ông nói mình đã thấy “kiến tánh”, thì vật đó dùng vào việc gì?” Nếu người ấy nói rằng để bán lấy tiền xài chơi, thì phải biết chắc giá của nó bằng trên mười tấn bàn ủi con gà 12 lỗ, còn nói giá dưới thì không phải.
    • Câu thứ hai: “Ông nói rằng mình đã thấy “kiến tánh”, thì ông thấy bản thân mình khác với những người chưa được trông thấy nó ở chỗ nào?” Nhất định, khi hỏi câu này, bằng hữu kính mến của ông sẽ cảm thấy bí như gà mắc tóc. Nếu hắn ta có trả lời, nhất định phải biết những câu trả lời, đó chỉ là những lời trên trời dưới đất của người không kiến tánh. Ông còn thắc mắc chuyện kiến tánh nữa không?

    Hỏi: Rất cảm ơn, cảm ơn! Bí mật này mà ông không nói ra, đố ai biết được. Đúng là đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Xin tạm biệt. Ngày mai gặp lại!

    Đáp: Hẹn gặp lại!

    ---------------------------

    1. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: Tên đầy đủ của kinh Pháp Hoa, dùng để Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến.
    2. Kinh Kim Cang: là bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh, được lưu truyền rộng rãi ở vùng Đông Á.
    3. Huệ Năng: chỉ Lục tổ Huệ Năng, vị tổ thứ 6, đệ tử Pháp tự của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
    4. Tú Đại sư: là đệ tử của Ngũ tổ còn có các tên gọi khác là Thần Tú Đại sư, Ngọc Huyền Thần Tú.
    5. Bàn Đặc Ca: còn có tên gọi khác là Chu Lợi Bàn Đặc, một trong những đại đệ tử của Đức Phật.
    6. Vua A Xà Thế: là vua của nước Man Kiệt Đà - một vương quốc cổ ở phía bắc của tiểu lục địa Ấn Độ.
    7. Tà nẻo: Các nẻo đường không đưa đến giác ngộ trong Phật Đạo.
    8. Kiến tánh (hay kiến tính): Là cảnh giới của những người đã thấy Tánh giác, thấy Tự tánh hoặc thấy Phật tánh.
    9. Chỉ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn: Vị tổ thứ 5 được truyền Y bát, là sư phụ của Lục tổ Huệ Năng. (thứ tự Tổ thứ 1 tại Trung Hoa là Đạt Ma)
    10. Huyện Huỳnh Mai, tỉnh Hồ Bắc, là trú xứ của ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
    11. Nặng là hèn chi: rất nặng (tiếng địa phương Nam Bộ VN)
    12. Tên đầy đủ Trần Đạo Minh – người được Huệ Năng khai thị cho giác ngộ.
    13. Y, bát: Áo cà sa và bình bát dùng để khất thực của Đức Phật thời còn tại thế, sau này dùng làm tín vật truyền thừa cho 33 vị Tổ.

    Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

    Thích Thích 3
    Không thích Không thích 0
    Yêu Yêu 0
    Buồn cười Buồn cười 0
    Tức giận Tức giận 0
    Thất vọng Thất vọng 0
    Ấn tượng Ấn tượng 0
    Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG