Ba Mươi Bảy Phẩm – Thất Giác Chi – Niệm Giác Chi

Có lẽ trong 37 phẩm không pháp nào được đề cập nhiều như niệm, chữ niệm được nhắc đến trong từng mỗi công đoạn điều này nói lên niệm xứ căn bản được duy trì suốt quá trình tu hành.
- Khác với Bồ Tát, hàng nhị thừa y thánh giáo thành thánh quả nên từ thân tướng đến học pháp nhất nhất y nơi thánh ngôn.
Điều này được Phật xác định là nhị thừa “y nơi người khác được quả,” có nghĩa nhị thừa không thể tự mình dùng trí tuệ giác ngộ mà phải nương nơi thánh giáo.
Y chỉ vào thánh ngôn cũng như thánh tướng và thánh luật không được sai khác, vì thế nhị thừa phải là tướng sa môn, giới luật cụ túc. Học pháp y thánh giáo, và sự rập khuôn này là biểu mẫu của Tam Bảo, làm nơi quy ngưỡng cho ba cõi.
Sự thù thắng này đã làm cho ngoại đạo run sợ không chỉ nơi nghĩa lý siêu việt mà còn là chuẩn mực bởi thánh hạnh.
- Thế nên, đối với nhị thừa học pháp là cơ sở tin cậy cho sự thân chứng, vì thế những học pháp của Thanh Văn thừa mang tính quy phạm.
Ngay bài học đầu tiên về niệm xứ Phật giảng dạy rất cụ thể về thân ngũ ấm: Sắc thọ tưởng hành thức mà không nói thọ tưởng hành thức là tâm; bởi tính chất của thọ tưởng hành thức dễ nhận ra và phân chia để yểm ly từng món một, cho nên nhị thừa đặt niệm xứ vào vị trí tối thượng từ đây gặt hái thành quả của mình.
Chính nhận thức mang tính hình mẫu này nên nhị thừa giác ngộ bằng sự thực chứng trên niệm xứ không thông qua suy luận, vì vậy trong thất giác chi nhị thừa đặt niệm giác chi lên đầu. Đoạn kinh sau thể hiện sự khuôn mẫu trong cách giáo nhị thừa:
“Này các Tỳ Kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Người và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật."
Và này các Tỳ Kheo, nếu các Người là những người thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự pháp, thì không những các Người trở thành những người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp," mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp."
Và này các Tỳ Kheo, nếu các Người là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật, thời không những các người trở thành những người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò là những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật," mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò đều là những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật."
Do vậy, này các Tỳ Kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Người và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật.”[[1]]
Sau đây là đoạn kinh văn chính ngài Xá Lợi Phất tuyên nói về học pháp:
“Và như thế nào, vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly? Này chư Hiền, vị Đạo Sư sống viễn ly các đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ Kheo có ba trường hợp đáng được tán thán.
Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các Thượng tọa Tỳ Kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các Thượng tọa Tỷ Kheo đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các Thượng tọa Tỷ Kheo đáng được tán thán.
Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỳ Kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán. Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ Kheo... (như trên)... Các vị mới thọ Tỳ Kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ Tỳ Kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các vị mới thọ Tỳ Kheo đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỳ Kheo đáng được tán thán. Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỳ Kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán.
Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly.”[[2]]
Đoạn kinh này mô tả một Thanh Văn đệ tử quán niệm xứ:
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: "Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu." Này các Tỳ Kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi." Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu."
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập thân hành niệm.”[[3]]
Đọc các đoạn kinh trích ở trên có lẽ dễ dàng nhận ra tính khuôn mẫu và cách thức tu tập của một Thanh Văn. Sự cụ thể đến từng chi tiết trong lời giảng đã khái quát phần nào từ cách giáo dạy đến học tập, cho nên chữ thánh phong tặng cho Thanh Văn đúng với thực tế của cái gọi là “khuôn vàng thước ngọc” trong đời sống và tu hành.
Đoạn kinh trên cho thấy Thanh Văn quán thân qua từng chi tiết, đặt các thân phần trước mặt rồi quán sát tường tận, sự tường tận giúp một Thanh Văn có được sự nhàm chán thân cao độ; nhàm chán là cơ sở tốt nhất để yểm ly, chính sự yểm ly rốt ráo này các pháp cơ hiềm thế gian được đoạn trừ; đoạn trừ cơ hiềm thế gian là một trong những điều kiện thoát ra khỏi cộng nghiệp, còn lại biệt nghiệp chỉ cần tinh cần trong thánh hạnh đến chuyên nhất sẽ đoạn trừ và giác ngộ chỉ là hệ quả tất yếu.
“Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ (dứt cộng nghiệp). Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh (dứt biệt nghiệp). Như vậy, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập thân hành niệm.”
- Tóm tắt có thể coi Bồ Tát với Thanh Văn là hai mặt tích cực trong cách giảng dạy và tu hành.
- Thanh Văn thiên về hình tượng cụ thể còn Bồ Tát thiên về trí tuệ, đối lập bất đắc dĩ này tạo ra sự đa dạng của Phật giáo. Nếu đặt thêm Bồ Tát Nhất Thừa và Duyên Giác lên một mặt bằng để nhìn ngắm, thì có lẽ không có một tôn giáo hay học thuyết nào ở đời lại phong phú trong cách giáo dục như Phật pháp.
Chính sự vượt thoát về cách thức giáo hóa này mà sau 2.500 năm, danh hiệu Đại Từ Đại Bi của Phật vẫn còn tồn tại mãi trong lòng mỗi chúng sinh.
[[1]] Trích kinh Thừa Tự Pháp – HT. Thích Minh Châu dịch.
[[2]] Trích kinh Thừa Tự Pháp – HT. Thích Minh Châu dịch
[[3]] Trích kinh Thân Hành Niệm – HT. Thích Minh Châu dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






