Ba Mươi Bảy Phẩm – Thất Giác Chi – Định Giác Chi

 0
Ba Mươi Bảy Phẩm – Thất Giác Chi – Định Giác Chi

Có lẽ trong thất giác chi không có một từ ngữ nào bị hiểu lầm và hàm oan nhiều như chữ ĐỊNH.

Đây là đối tượng bị chụp mũ và gán ghép nhiều ý nghĩa bất lợi rồi trở thành tội đồ cho cái gọi là công phu, mà ngày đêm bốn thời người tu hành miệt mài tìm kiếm hình thức đặt để nào đó cho tâm.

Với định kiến rằng định tâm phải như thế này hay định tâm phải như thế kia, xin thưa! Thế này hay thế kia là sự chấp nhứt thế này hay thế kia, chứ không phải định giác chi, vì định của Phật giáo không như một cái gì hết, như cái gì thì là cái đó, càng không phải định giác chi.

Hoặc đem tâm dõi theo một sở pháp cho đó là định, khác nào đặt bó cỏ để trước mặt con lừa buộc con lừa đi theo hướng ông chủ đã định. Thành ra nói định mà trong sâu thẳm lại có hình bóng của vọng tưởng, như con lừa kia vọng nơi bó cỏ tưởng là bình yên.

  • Định trong đạo giải thoát lại hiểu như một sự cột trói hoặc chạy theo thì chắc là không có nỗi oan nào bằng. Định của đạo giác ngộ lại được mô tả như là sự vây hãm đóng đinh trí tuệ thì ‘định’ này làm sao sinh được ‘tuệ’, mà nói rằng ‘nhân giới sinh định’, ‘nhân định sinh tuệ’.

Do đó trước khi đi sâu vào chi phần được gọi với cái tên đầy ấn tượng là định giác chi. Cũng nên cần minh oan chữ định, trả lại nó ý nghĩa đích thực của một thuật ngữ tiêu biểu cho tinh hoa Phật pháp. Một thuật ngữ chủ đạo mang tính khái quát cao khi nghe đến liền biết đây là biểu tượng cao đẹp của Phật giáo. Và cũng trả lại cho định ý nghĩa trong sáng từ bản chất an bình tuyệt đối trong bản thể sâu thẳm của tâm mà người xưa gọi là định giải thoát, định giác ngộ, hay định giác chi.

Trong thế pháp có thể hiểu định bằng ý nghĩa này hay ý nghĩa khác, nhưng trong đạo xuất thế nếu hiểu sai ý nghĩa của định thì mọi nỗ lực tu hành coi như tiêu tan và sẽ không có thành tựu đúng như mong muốn.

Bởi lẽ mọi người tu hành đều coi định như mục tiêu cần nhắm đến hay là mục đích cần phải đạt được. Do đó chữ định vừa là mục tiêu vừa là định hướng cho những khái niệm tu tập sau này, hòng tìm giải pháp tối ưu để thành tựu nó.

  • Không một ai trong giới tu hành không biết rằng nếu đạt được định tâm thì mọi vấn đề coi như giải quyết. Nhưng định như thế nào được gọi là hoàn thành sứ mệnh tu hành thì thường ít có ai nghĩ đến hoặc có nghĩ cũng khó tìm ra ý nghĩa đích thực của định.

Khi nói đến định người tu hành cứ y như tên gọi để hiểu nên dễ đưa đến sự ngộ nhận trong thuật ngữ này, và thường khuyến khích nhau hiểu định như một thứ tập trung tư tưởng, hoặc cột chặt tâm vào một sở pháp để tâm bị nhiếp vào một cái gì đó. Lại có một số người hiểu định có ý nghĩa đối lập của động và tìm mọi cách làm cho tâm không động là được.

Hiểu định như những cách vừa nêu là cách hiểu của thế gian hoặc chủ trương của một số học phái nào đó. Hiểu biết này không liên quan gì đến định giác chi, cũng không liên quan đến tất cả những chữ định mà Phật pháp nêu lên.

  • Định giác chi là định trong giác ngộ hay khác hơn là do giác ngộ lẽ thật mà tâm không loạn động, có nghĩa nhân nơi thấu suốt bản chất sự việc hay một pháp nên tâm không chạy theo pháp hoặc bị loạn động bởi cảnh duyên.

Ví như biết rõ cục vàng trước mặt đích thực là trái phá có thể giết chết người thì một cách rất tự nhiên là sẽ lánh xa trái phá hoặc không bị cuốn hút chạy theo tướng vàng của nó.

Hoặc một người hiểu biết thấu đáo luật giao thông, khi tham gia giao thông không vi phạm luật sẽ không bị phiền bởi những người làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự giao thông.

Hay chén thuốc cực độc có hương vị quyến rũ cho dù khát nước cách mấy nếu biết đó là chén thuốc độc thì chẳng ai uống bao giờ.

  • Có những trường hợp sau khi giác ngộ trong lòng không tham sân, rỗng rang nên tâm rời xa cớ sự thường tình gọi là định. Ví như ngày trước thấy bóng dáng kẻ thù thì hoặc chạy trốn hoặc tìm kiếm để trả thù, khi tâm thù hận đã hết cho dù kẻ thù xuất hiện trước mặt cũng không làm tâm dao động vì thù hận, không lo âu cũng không chạy theo kẻ thù ấy để tạo nghiệp.

Chữ định trong Phật pháp dù lý giải ở góc độ nào cũng nằm trong nguyên lý: Mọi trạng thái thanh tịnh của tâm hoặc định tâm đều là thuộc tính của giác ngộ, nhân giác ngộ mà có được.

Những ví dụ trên phần nào minh họa chữ định trong định giác chi, có thể kết luận định giác chi là kết quả nhất định của sự thấu suốt, hay do giác ngộ mà tâm không dao động gọi là định.

  • Chữ định là cách nói vắn tắt của thiền định, tức nhân nơi thiền mà tâm được an ổn gọi là định. Thiền là tĩnh lự, tức tĩnh tâm suy nghĩ đến việc cần suy nghĩ không suy nghĩ mông lung.
  • Thiền khác với suy nghĩ bình thường ở chỗ có tĩnh tâm chỉ suy gẫm một việc đến tận nguồn cơn, khi nguồn cơn thấu đáo thì tâm an định, hay nói khác hơn đây là sự an ổn khi thấu suốt sự việc.

Nếu tất cả mọi việc (bốn niệm xứ) đều thấu đáo thì tâm vĩnh viễn an ổn. Pháp giới mênh mông nhưng Niết Bàn an ổn chỉ cất dấu ở bốn nơi thân thọ tâm pháp, nếu ra công tìm kiếm ở bốn nơi đó thì mọi việc đều xong.

Do đó trước khi đưa đệ tử vào đời sống tu hành Phật giảng giải vấn đề rất khúc chiết. Đoạn kinh sau mô tả cách giảng giải của Phật cho người tu thiền để được định:

 “Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác Chi. Này các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác Chi?

Này các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác chi," hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi." Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi [[1]], tuệ tri: "Nội tâm tôi có xả giác chi," hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có xả giác chi." Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp.

Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp." Có những pháp ở đây, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên  đời. Này các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác Chi.”[[2]]

Toàn văn đoạn kinh Phật giảng giải rất tỉ mỉ một pháp và cách quán sát, khi quán sát đến tường tận nguyên nhân sanh khởi và nguyên nhân diệt tận, vị ấy hướng tâm đến chánh trí, chánh niệm (thiền), và tâm không dao động (định): “Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời,” nghĩa là do thấu suốt nguyên nhân sinh khởi, nguyên nhân diệt tận một pháp (thiền), vị ấy tâm an định, không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời (định).

  • Không nương tựa, không chấp trước việc gì trên đời Phật giáo gọi đó là thiền định, định giác chi là ý nghĩa này. Ở đây thấu suốt nguyên nhân sinh khởi và nguyên nhân diệt tận một pháp cực kỳ quan trọng.

Thấu suốt này là cơ sở để tâm hoàn toàn không bị nhiếp bởi pháp dù đó là năng hay sở.  

Nội pháp là năng, ngoại pháp là sở. Tâm nhiếp nội pháp sanh ngã, tâm nhiếp ngoại pháp sẽ sanh phiền muộn gọi là trần lao. Ngã và trần lao là hai chủ thể của sinh tử và phiền não.

Thiền định là cách tư duy quán sát nguyên nhân sanh khởi, nguyên nhân diệt tận của hai pháp này để tâm không nhiếp cũng không bị hai pháp này nhiếp gọi là định.

Đến đây có thể hình dung được tâm định là tâm như thế nào và định này do đâu sanh. Hiểu biết tường tận để định hướng cho con đường tu tập sẽ ít nhọc sức tốn công mà kết quả thành tựu như ý.

Đoạn kinh sau là tiêu biểu của sự tu tập đúng hướng và thành tựu thanh tịnh tự thân gọi là định:

 “Lại nữa, này các Tỳ Kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế. Này các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế? Này các Tỳ Kheo, ở đây, Tỳ Kheo như thật tuệ tri: "Đây là Khổ," như thật tuệ tri: "Đây là Khổ tập," như thật tuệ tri: "Đây là Khổ diệt," như thật tuệ tri: "Đây là con đường đưa đến Khổ diệt." Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp." Có những pháp ở đây, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế.

Này các Tỳ Kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỳ Kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỳ Kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỳ Kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỳ Kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây:  Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh  trí,  chứng ngộ Niết Bàn . Đó là Bốn Niệm Xứ .[[3]]

Trong ‘định giác chi’ có sự khác biệt rất xa của ba thừa.

− Nhị Thừa giác ngộ yểm ly niệm xứ nên tâm không lay động.

− Bồ Tát Quyền Thừa nghe giản trạch một pháp đến nguồn cơn nên tâm thanh tịnh.

− Nhất Thừa nhân nơi thánh ngôn lượng thấy được tâm và pháp đồng là đạo nên an ổn phát sinh.

  • Cả ba trạng thái này đều gọi chung là định.

Sở dĩ ba thứ định phát sinh là vì động cơ giác ngộ sai khác, thường gọi là tùy theo căn cơ.

Có thể ví dụ, trong tối người ta lầm tưởng sợi dây thành con rắn, Thanh Văn tìm nơi an ổn lánh xa con rắn và phòng hộ vững chắc nên tâm không có sự lay động nào về con rắn (đầy đủ giới-định-huệ);

Bồ Tát quyền thừa được dạy các biện pháp vô hiệu hóa nọc độc nên không coi con rắn là mối đe doạ nên tâm được thanh tịnh trước con rắn (huệ-định-giới);

Bồ Tát nhất thừa biết con rắn chỉ là sợi dây có thể dụng tâm dùng sợi dây làm lợi ích nên toàn tâm và pháp là đạo (định tuệ Ba La Mật).

  • Hiểu biết sai khác về con rắn là giác, an ổn thân tâm gọi là ngộ, cho nên Phật giáo còn gọi là đạo giác ngộ.

Nếu không giác ngộ thì mọi thứ định nếu có được đều đồng ngoại đạo, tức định này không đưa đến giải thoát. Do đó hiểu biết thế nào là định đúng ý nghĩa Phật pháp là quan trọng và rất cần thiết.

Hiểu biết sai hoặc lệch hướng sẽ không thể có thành tựu nào trong con đường tu hành. Giống như người đào vàng mà không hề biết tướng trạng của vàng nhất định sẽ đem về sỏi đá.

Thực tế hãy tự kiểm tra xem ta đang có được vàng hay đá? Sự nhầm tưởng tác hại này chỉ là hệ quả của không thấu đáo, việc đời đã vậy việc đạo không khác.

  • Bỏ một đời dấn thân tu hành không phải làm cho vui cho lấy có, nếu vì không biết mà nhầm lẫn thì không lỗi lầm gì chỉ cần bỏ hiểu biết sai ấy đi là xong, không nên cố chấp.

Phật đạo không dành cho những cá nhân tâm tình cố chấp, xả chấp nhất đi thì đã là định rồi đấy!

[[1]] (trình tự bảy giác chi của nhị thừa)

[[2]]  Trích kinh Niệm Xứ -HT. Thích Minh Châu dịch.

[[3]] Trích kinh Niệm Xứ - HT. Thích Minh Châu dịch.

(còn nữa)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 0
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG