Phật Thuyết Kinh Bốn Mươi Hai Chương & Phần 2

Chương 10: HOAN HỶ BỐ THÍ TẤT ĐƯỢC PHƯỚC
Đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí[[1]] mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn."
Có thầy Sa môn hỏi rằng: "Bạch đức Thế Tôn, phước ấy hết chăng?"
Đức Phật đáp: "Ví như lửa của một cây đuốc, dù có vài trăm ngàn người ai nấy đều mang đuốc đến chia nhau mồi lấy lửa để về nấu ăn và xua tan bóng tối, thì ngọn đuốc kia vẫn y như cũ. Phước báo cũng như thế!"
Chương 11: SỰ GIA TĂNG CỦA CÔNG ĐỨC
Đức Phật dạy:
- "Đãi một trăm người ác ăn, không bằng đãi một người thiện ăn.
- Đãi một ngàn người thiện ăn, không bằng đãi một người trì Ngũ giới ăn.[[2]]
- Đãi một vạn[[3]] người trì Ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu đà hoàn ăn.
- Cúng dường một trăm vạn vị Tu đà hoàn, không bằng cúng dường cho một vị Tư đà hàm ăn.
- Cúng dường một ngàn vạn vị Tư đà hàm, không bằng cúng dường cho một vị A na hàm ăn.
- Cúng dường một ức[[4]] vị A na hàm, không bằng cúng dường cho một vị A la hán ăn.
- Cúng dường mười ức[[5]] vị A la hán, không bằng cúng dường cho một bậc Bích Chi Phật[[6]] ăn.
- Cúng dường một trăm ức bậc Bích Chi Phật, không bằng cúng dường cho một đức Tam Thế Chư Phật[[7]] ăn.
- Cúng dường một ngàn ức đức Tam Thế Chư Phật, không bằng cúng dường cho một đấng Vô Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, Vô Chứng[[8]] ăn."
Chương 12: NÊU RA SỰ KHÓ ĐỂ KHUYẾN TU
Đức Phật dạy: "Người ta có hai mươi sự khó:[[9]]
1) Nghèo khổ mà làm được việc bố thí là khó;[[10]]
2) Giàu sang quyền quý mà học Đạo là khó;[[11]]
3) Dám bỏ mạng sống đi vào chỗ chết là khó;[[12]]
4) Được thấy kinh Phật là khó;[[13]]
5) Sanh gặp đời có Phật là khó;[[14]]
6) Tự chế “sự ham muốn sắc dục” là khó;[[15]]
7) Thấy tốt mà chẳng mong cầu là khó;[[16]]
8) Bị sỉ nhục mà chẳng tức giận là khó;[[17]]
9) Có thế lực mà không ỷ cậy là khó;[[18]]
10) Gặp việc mà lấy tâm vô tư ứng xử là khó;[[19]]
11) Học rộng mà vẫn tham khảo nhiều là khó;[[20]]
12) Dẹp trừ tánh ngã mạn là khó;[[21]]
13) Chẳng khinh người chưa học là khó;[[22]]
14) Thực hành tâm bình đẳng là khó;[[23]]
15) Chẳng nói những chuyện thị phi là khó;[[24]]
16) Gặp được Thiện tri thức là khó;[[25]]
17) Học Đạo, thấy được tánh là khó;[[26]]
18) Tùy duyên hóa độ người là khó;[[27]]
19) Thấy cảnh mà không động tâm là khó;[[28]]
20) Khéo biết phương tiện là khó."[[29]]
Chương 13: HỎI VỀ ĐẠO VÀ TÚC MẠNG
Một vị Sa môn hỏi Phật: "Do nhân duyên[[30]] gì mà được biết túc mạng và hiểu thấu lẽ Đạo?"
Đức Phật dạy: "Giữ tâm thanh tịnh,[[31]] ý chí vững bền, thì có thể hiểu thấu Đạo cao tột. Ví như lau gương, chùi hết cấu bẩn thì còn lại vẻ sáng; dứt lòng tham dục,[[32]] không còn mong cầu, tất sẽ đắc Túc mạng." [[33]]
Chương 14: HỎI VỀ TÁNH THIỆN VÀ ĐẠI
Một vị Sa môn hỏi Phật: "Điều gì là thiện? Điều gì là tối đại?"[[34]]
Đức Phật dạy: "Thực hành Đạo và giữ bề chân thật, là thiện.[[35]] Chí và Đạo hợp nhau, là đại."[[36]]
Chương 15: HỎI VỀ SỨC MẠNH VÀ SÁNG
Sa môn hỏi Phật: "Cái gì mạnh nhất? Cái gì sáng nhất?"
Đức Phật dạy: "Nhẫn nhục[[37]] mạnh nhất, vì chẳng mang lòng ác, lại được thêm an kiện. Kẻ nhẫn nhục không ác, tất được người đời tôn kính. Cấu nhiễm trong tâm diệt hết,[[38]]
sạch không còn uế trược, đó là sáng nhất.[[39]]
Từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay, bao nhiêu sự vật trong mười phương, không có gì là chẳng thấy, không có gì là chẳng biết, không có gì là chẳng nghe. Được Nhất thiết Trí[[40]] có thể gọi là sáng vậy."
Chương 16: BỎ ÁI DỤC TỨC ĐẮC ĐẠO
Đức Phật dạy: "Người ôm giữ lòng ái dục[[41]] chẳng thấy được Đạo, ví như nước đã lóng trong lại lấy tay khuấy lên, khiến những người đến xem đều không thấy được bóng của họ.
Người đời vì bị ái dục xáo trộn, làm cho cấu trược trong tâm nổi dậy, nên chẳng thấy được Đạo.
Sa môn các ông phải xả bỏ ái dục, cấu bẩn ái dục hết sạch thì có thể thấy được Đạo!"
Chương 17: ÁNH SÁNG ĐẾN, BÓNG TỐI TAN
Đức Phật dạy: "Người thấy được Đạo ví như kẻ cầm đuốc đi vào phòng tối, bóng tối lập tức tan biến, chỉ còn lại ánh sáng. Học Đạo mà thấy được chân lý[[42]] thì vô minh liền dứt, ánh sáng sẽ thường còn."
---
Phần chú giải
- Tư sanh thí hay Tài thí: Thí của cải cho người khác;
- Pháp thí: Đem đạo lý mà giảng giải, truyền bá;
- Vô úy thí: Đem sự yên ổn, không lo sợ đến cho người khác, nhất là trong những khi họ gặp nguy nan, hoạn nạn.
[[2]] Năm giới cấm là: 1. Không sát sanh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói dối; 5. Không uống rượu (ý mở rộng là dùng chất gây nghiện làm mê mờ trí tuệ). Năm giới này áp dụng cho hàng cư sĩ tại gia.
[[3]] Vạn ( 萬 ): Mười ngàn. (10x 1.000 = 10.000; từ điển Hán Nôm;)
[[4]] Ức ( 億 ): Mười vạn là một ức (10x10.000 =100.000; http://hvdic.thivien.net/hv/ức)
[[5]] mười ức = 10x100.000 = 1.000.000 (một triệu)
[[6]] Bích chi Phật (Prateyka Bouddha (S), Hán dịch âm là Bích chi ca Phật đà) 1)Nghĩa là Độc giác: Vị này sanh ra không gặp Phật tại thế, tự mình tu học mà giác ngộ, nhập Niết bàn, nên gọi là Độc giác Phật. 2)Nghĩa là Duyên giác: Vị sanh ra thời có Phật, nhờ quán “Mười hai nhân duyên” mà giác ngộ, nên còn gọi là Duyên giác Phật.
[[7]] Tam Thế Chư Phật (Phật ba đời):
− Nghĩa 1: Các Vị Phật quá khứ (…Kàsyapa -Phật Ca Diếp), hiện tại (Sàkyamuni -Phật Thích Ca Mâu Ni) và vị lai (Maitreya -Phật Di Lặc).
− Nghĩa 2: Vị Phật của cả ba đời là quá khứ, hiện tại và vị lai. Phật, nghĩa là vị đã chứng nhập Niết bàn hoàn toàn, không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian.
[[8]] Bậc Vô Tu Vô Chứng: Vị tu hành này sau khi thành tựu trí tuệ, vào Đẳng Giác Bồ Tát, tức “Bồ Tát biết cái Phật biết, thấy cái Phật thấy, chứng điều Phật chứng...” Thế nên, đạo quả này còn gọi là Vô Tu Vô Chứng... Gọi Vô Tu Vô Chứng là vì Bồ Tát này không còn gì để tu, không còn gì để chứng, chứ chẳng phải Vô Tu Vô Chứng là không biết cái để tu, chẳng biết cái để chứng như đa số người tu hành thường hiểu...
[[9]] Đề tựa chương này là "Cử nan khuyến tu", nghĩa là nêu lên những sự khó khăn để khuyên người cố gắng tu tập... Trong dị bản chỉ thấy có 5 điều, không phải là 20. Ấy là 5 điều đầu tiên kể từ trên xuống. Chúng tôi giữ nguyên theo bản này là 20 điều, mặc dù thấy cũng có một số điều trùng lặp, hoặc theo tinh thần Đại thừa, không nhất quán với toàn văn kinh.
[[10]] Bố thí là việc được phước đức. Có tiền của để bố thí thì không khó lắm, nhiều người làm được. Nhưng kẻ nghèo túng, tự mình chưa đủ cơm ăn áo mặc mà phát tâm bố thí cho kẻ khác, điều đó mới khó làm. Ấy là chuyện "Lá rách đùm lá nát", khó làm lắm thay.
[[11]] Người phát tâm học đạo là khó. Nhưng sanh trong nhà quyền quý, giàu sang, hưởng mọi sự sung sướng, đầy đủ mà học được đạo mới là điều khó. Bởi học đạo thì phải từ bỏ những sự sung sướng vật chất giả tạm, mà nó lại đang cuốn hút quanh mình mỗi ngày. Việc ấy thật khó làm.
[[12]] Kinh văn là "tất tử", nghĩa là chắc chắn sẽ chết. Người dám liều mạng sống đã là việc khó, nhưng hầu như ít nhiều cũng còn có phần hy vọng sống sót, như người lính ra trận chẳng hạn. Kẻ biết chắc chắn sẽ chết mà vẫn dám liều thân, việc ấy mới thật rất khó làm.
[[13]] Thấy được kinh Phật là rất khó, bởi không đủ nhân duyên thì chẳng được thấy. Nhiều người được nhìn thấy, nhưng chẳng có lòng tin, chẳng thể đọc hiểu, thì cũng chẳng gọi là được thấy. Nếu thật được thấy kinh Phật, tức cũng như nghe lời Phật thuyết, học được đạo Phật, tu hành quyết định thành Phật, chẳng phải là khó lắm sao?
[[14]] Chư Phật ra đời rất khó gặp, mỗi vị đều phải hội đủ nhân duyên mới xuất thế. Chỉ riêng ở địa cầu này, từ Phật Thích ca đến nay đã hơn 2.500 năm chưa có vị Phật thứ hai xuất hiện. Lại nữa, dù sanh ra cùng thời với Phật mà không đủ duyên lành cũng không gọi là gặp Phật. Toàn cõi Ấn Độ chẳng phải ai ai cũng được Phật Thích Ca độ! mà ngoại đạo cũng rất đông. Nếu xét trên toàn cầu thì số ấy càng lớn nữa. Lòng từ bi của Phật dẫu bao trùm hết thảy chúng sanh, nhưng tự mình không có căn lành cũng chẳng làm sao gặp Phật. Nên nói được gặp Phật là rất khó vậy.
[[15]] Kinh văn là "nhẫn sắc nhẫn dục", nhẫn ở đây không phải nhẫn nhục, mà là kham nhẫn. Cõi Ta bà này gọi là Dục giới, bởi mạng sống của chúng sanh tồn tại và luân chuyển do nơi sắc dục, nên biết sắc dục lôi cuốn người ta rất mạnh. Tự chế được sự ham muốn sắc dục mà hành xử đúng đắn, hợp chánh đạo là điều rất khó.
[[16]] Kinh văn là "kiến hảo bất cầu", chữ "hảo" là tốt đẹp. Người đời tâm tham thì thấy vật gì tốt đẹp cũng khởi tâm mong cầu, cho dẫu mình không cần đến. Nhận biết được vật tốt mà không mong cầu cho mình là điều rất khó, còn nếu đã khởi tâm ham thích, ưa muốn tức đã đi hết một nửa đường đến chỗ mong cầu rồi.
[[17]] Đây chính là hạnh kham nhẫn của Bồ Tát. Người đời khi bị sỉ nhục tất sanh lòng oán hận, giận dữ. Bởi sự xúc phạm về thân thể như đánh đập, xô đẩy, đôi khi còn có thể nhẫn chịu được, còn sự xúc phạm về tinh thần nó ngấm ngầm mà tác động đến con người mạnh mẽ hơn gấp bội. Khi mình bị kẻ khác làm nhục mà giữ được tâm thản nhiên không hờn giận, chỉ có thể là kẻ biết tu hạnh kham nhẫn. Việc ấy rất khó làm.
[[18]] Người đời khi có thế lực thì trong tâm thường sanh cống cao, ngã mạn, ỷ cậy vào đó rồi coi thường, hiếp chế người khác. Kẻ hiểu đạo nhìn thấy tất cả danh vọng quyền thế như bèo nổi mây trôi mới có thể dẹp trừ tâm kiêu mạn ấy. Cho nên người có thế lực mà không ỷ cậy chính là người hiểu đạo, thật rất khó làm.
[[19]] Kinh văn là "xúc sự vô tâm", "vô tâm" ở đây hiểu là "không có tâm hư vọng", khi tiếp cận với sự việc chỉ thuận theo lẽ đạo mà làm, chẳng để cho nó cuốn hút mình vào vòng lo nghĩ, ưu tư, cũng không để cho những định kiến hoặc lòng yêu, ghét chi phối vào (sanh tâm hư vọng). Trước đây có bản dịch là "gặp việc không quan tâm", e rằng không đúng vì mắc phải bệnh nhậm (mặc kệ), không thành tựu được đạo quả trong Phật đạo.
[[20]] Người học rộng biết nhiều thường sanh ra tự phụ, ít khi chịu tham cứu kiến giải của người khác. Kẻ tự mình học rộng biết nhiều, nhưng vẫn chịu khó thận trọng mà tham khảo, cứu xét kỹ lưỡng nhiều nơi, quả là việc rất khó làm, vì dẹp bỏ được sự tự cao, tự mãn của mình.
[[21]] Ngã mạn là gốc của muôn tật xấu. Vì chấp lấy cái ta, lúc nào cũng xem ta là hay giỏi hơn kẻ khác nên làm chướng ngại cho sự học đạo. Mạn (có ngã mạn) là một trong mười kiết sử (Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, giới cấm thủ kiến, biên kiến, kiến thủ kiến và tà kiến) làm người tu hành khó thành tựu đạo quả vô lậu trong Phật đạo.
[[22]] Người có chút kiến giải, tri thức hơn người khác, do tâm ngã mạn mà khinh thường những kẻ thấp kém hơn mình. Kẻ hiểu đạo nhận biết rằng người thấp kém ấy chẳng qua là vì chưa được học, nên chẳng dám sanh tâm khinh thường. Lại nói, trong đạo Phật theo Đại thừa, hết thảy chúng sanh đều là Phật sẽ thành, nên càng chẳng dám khinh thường. Kinh Pháp Hoa dẫn chuyện Bồ Tát Thường Bất Khinh, dù gặp bất cứ ai cũng đều cung kính lễ bái, biết rằng vị ấy về sau sẽ thành Phật. Như vậy, nếu chẳng khinh thường người chưa học, đó chính là người hiểu đạo, thật khó làm thay!
[[23]] Tâm bình đẳng là không thiên vị, không phân biệt kẻ thân người sơ, kẻ nam người nữ, kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ già người trẻ. Đem lòng thương tất cả chúng sanh như nhau.
[[24]] Thị là phải, đúng. Phi là sai, trái. Chuyện thị phi ở đây là chuyện phải quấy của người khác. Tự mình hãy lo tu học, sửa mình, chẳng nên lo bàn chuyện thiên hạ. Tâm người đời rất dễ bị lôi cuốn vào những chuyện thị phi quanh mình. Kẻ dũng mãnh dẹp bỏ, không bị lôi cuốn bởi thị phi ấy mới có thể chuyên tâm tu học. Việc ấy thật khó làm.
[[25]] Thiện tri thức: có 3 nghĩa... 1)Tiếng xưng hô người đủ chánh tri chánh kiến.
2)Người bạn đạo (S: kalyā ṇamitra; P: kalyānamitta; Hán dịch là Thiện hữu (善友), Ðạo hữu (道友)): Thời Phật, danh từ này được dùng để chỉ một vị tăng đầy đủ những đạo hạnh như nắm vững lí thuyết Phật pháp và tinh thông thiền định... Ðức Phật dạy: “Cả một cuộc đời tầm đạo đều lấy tình bạn làm căn bản… Một Tỷ kheo, một Thiện tri thức, một người bạn đồng hành – Từ một vị này người ta có thể mong đợi rằng, ông ta sẽ tinh cần tu học Bát chánh đạo để đạt giải thoát cho chính mình và những người bạn đồng hành.”
3)Thiện tri thức có ba loại: (1)Giáo thọ thiện tri thức (教授善知識), là những người có khả năng hướng dẫn, dạy dỗ trên con đường tu hành, là bậc thầy; (2)Ðồng hạnh thiện tri thức (同行善知識), là những người đồng chí, đồng hạnh, tức là người bạn tốt, trung thành; (3)Ngoại hộ thiện tri thức (外護善知識), là những người giúp cho những tiện nghi, tạo điều kiện tốt cho người tu hành.
Nói chung, nếu gặp được người bạn lành, cùng làm việc lành, sách tấn nhau tu tập, đều hiểu chung là những bậc thiện tri thức. Người như vậy thật rất khó gặp.
[[26]] Tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh Phật. Nhưng nhận ra tánh ấy thật chẳng phải dễ dàng, chính là sự nghiệp một đời của người tu học Phật. Kẻ thấy tánh học đạo thì quả Phật chắc chắn đạt đến, như vậy chẳng phải là khó được lắm sao?
Kinh Pháp Bảo Đàn nói: "Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. Nếu tự biết bản tâm, tự thấy bản tánh, tức là bậc trượng phu, là thầy của hàng trời người, là Phật."
[[27]] Dù người tà ác nhưng mình không bỏ, cố theo để giáo hóa họ làm thiện. Việc ấy thật khó làm.
[[28]] Người đời hễ gặp cảnh vui thì xúc động mà bám theo, gặp cảnh buồn thì xúc động mà chán ngán. Đối với cảnh, giữ tâm được chẳng động, uy vũ chẳng khuất phục, bần tiện chẳng đổi chí. Việc ấy thật khó làm. Kinh Duy ma cật nói: "Năng thiện phân biệt chư pháp tướng, ư đệ nhất nghĩa nhi bất động." (Có thể khéo phân biệt các pháp tướng, nơi nghĩa chân thật lòng không lay động.)
[[29]] Phương tiện là sự quyền biến thi hành để đạt được kết quả mong muốn. Hành xử theo khuôn thước có sẵn thì ai cũng làm được. Tự mình nghĩ ra phương tiện linh hoạt, khéo léo để đạt đến kết quả mới là điều khó. Như việc biết sao nói vậy là dễ, nhưng tùy theo trình độ của người nghe mà dẫn dắt từ dễ đến khó cho họ hiểu được (thiện xảo phương tiện), việc ấy rất khó làm.
[[30]] Nhân là nguyên nhân sanh ra sự vật, sự việc. Duyên là những điều kiện phụ trợ giúp cho sự vật, sự việc sanh ra. Tỷ như cây mọc lên, nhân là hạt giống, duyên là mưa nắng, đất, phân bón, công chăm của người trồng...
[[31]] Giữ cho lòng được trong sạch, yên tịnh, chẳng để phiền não, ba độc tham, sân, si làm xáo động.
[[32]] Tham dục: “Người tham dục làm bạn / Sẽ luân chuyển dài dài / Khi hiện hữu chỗ này / Khi hiện hữu chỗ khác/ Người ấy không dừng được/ Sự luân chuyển tái sinh / Rõ biết nguy hại này / Chính tham dục sinh khổ / Tỳ kheo dứt tham dục / Không nắm, không thất niệm / Vị ấy thật xuất gia.”(Tăng Chi I, tr. 358)
[[33]] Túc mạng: Kiếp trước, những đời sống đã qua. Biết được túc mạng tức là nhớ biết những kiếp quá khứ của mình, hoặc thấy biết được những kiếp quá khứ của người khác… “Sau khi chứng tứ thiền, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng, không dao động, ta dẫn tâm, hướng tâm đến “túc mạng minh”. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ 1 đời, 2 đời, 3 đời, 4 đời, 5 đời, 10 đời, 20 đời, 30 đời, 40 đời, 50 đời, 100 đời, 1000 đời, 100.000 đời,… nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp… Ta nhớ rõ ràng: tại chỗ kia, ta có tên thế này, dòng họ thế này, giai cấp thế này, thọ khổ lạc thế này, tuổi thọ thế này. Sau khi chết, ta sinh ở chỗ khác. Tại chỗ ấy, thân cũng nhớ rõ như trên… Như vậy, ta nhớ đến nhiều đời, nhiều kiếp sống quá khứ với nét đại cương và các chi tiết.” (Tăng Chi III, tr. 33). Cần lưu ý rằng túc mạng minh trong Phật giáo là kết quả của đoạn trừ tham dục. Chứng tứ thiền, tâm an trú định tĩnh. Đó là giải thoát. Khác với quan điểm túc mạng của các cô đồng bà cốt…
[[34]] Tối đại: Vĩ đại; Rất lớn; Lớn lao.
[[35]] − Với Nhị thừa: Thiện là “Không bệnh hoạn (Arogya), tốt đẹp (Sundara), khôn khéo (Cheka), không lỗi lầm (Anavajja) và có quả an vui (Sukhavipaka)” (Bộ Pháp Tụ, tr. 24).
− Với Bồ Tát thừa: Thiện là “Thuận đệ nhất nghĩa viết thiện. Bội đệ nhất nghĩa viết bất thiện.” Nghĩa là những hiểu biết, tạo tác nào không dẫn đến chân lý tuyệt đối là bất thiện hay còn gọi là ác. (Bồ Tát Anh Lạc Kinh)
[[36]] Khi tâm chí đã tiếp hiệp các chân lý, tâm hành giả sẽ xu hướng đến thiện pháp, ly bất thiện pháp, xu hướng đến Niết bàn, giải thoát: một sự vĩ đại của các vĩ đại.
[[37]] Nhẫn nhục: chịu được với cảnh nghịch mà chẳng khởi ra sự giận hờn. Dù bị người hủy nhục, bức hại, hoặc gặp những khổ đau do hoàn cảnh bên ngoài đem đến, thì thân tâm vẫn an tịnh và chịu đựng được hết. Kinh Tăng nhất A hàm nói: "Tỳ kheo lấy nhẫn nhục làm sức mạnh."
[[38]] Cấu nhiễm: Phiền não trong tâm sanh ra uế trược. Các phiền não nói chung gom vào ba thứ: tham lam, sân hận và si mê. Dứt sạch ba thứ ấy thì tâm tự trong sáng, yên tịnh.
[[39]] Phiền não còn, tức là uế trược, tối tăm. Phiền não dứt, tức là trong sạch, sáng suốt.
[[40]] Nhất thiết trí (切智; S: sarva jña; P: sabba ñöa; Hán dịch âm là Tát Bà Nhã (薩婆若), Tát Bà Nhã Đa (薩婆若多)): Là trí tuệ thông đạt hết thảy trong ngoài, biết hết thảy các pháp.
[[41]] Ái dục: Sự luyến ái và ham muốn đối với vợ con, nhà cửa, sự sản... Ái dục nơi con người ta là rất lớn, rất mạnh, nên Kinh Hoa Nghiêm nói: "Phá vỡ núi phiền não, tát cạn biển ái dục."
[[42]] Kinh văn là "kiến đế", đây muốn nói đến Tứ diệu đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Thấu suốt và thể nhập được Bốn đế ấy... là bậc Thánh, chẳng biết, chẳng thấy và chẳng thể nhập tức là phàm phu.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






