Khái Niệm Sám Hối

Sám hối là khái niệm mà mọi người tu hành đều biết, đều thực hành ít nhất một vài lần trong đời với hy vọng thành tâm sám hối tội nghiệp sẽ tiêu trừ. Thành tâm sám hối là điều đáng hoan nghênh nhưng như thế nào được gọi là thành tâm thì phải coi lại.
֎Sám hối, ý nghĩa hai từ này không xa lạ gì với người tu hành, ai cũng biết sám hối là ăn năn chừa bỏ thói cũ và không lặp lại lỗi này trong vị lai. ֎Đúng là như vậy không lặp lại lỗi này trong vị lai thì được rồi, nhưng lỗi đã làm thì sao đây?
Không lẽ bắt con gà ông A ăn thịt rồi đứng trước bàn thờ Phật bảo rằng tôi nay thành tâm sám hối, hết lỗi này chăng? ... Con gà của ông A đâu phải con gà của Phật, Phật có thể tha thứ nhưng liệu ông A có tha thứ hay không? ... Những điều như vậy không đơn giản, chưa nói chúng sanh trong nhiều đời kiếp tạo vô số lỗi ác nay làm sao hóa giải...! ... Chuyện con gà ông A là chuyện trước mắt có thể đến năn nỉ xin bồi thường mong ông A tha thứ, nhưng những chuyện từ lũy kiếp biết kiếm ai mà bồi thường...! ... Tu hành ai cũng biết gieo nhân nào gặt quả ấy, vô lượng kiếp gieo biết bao nhân lành dữ nay không khéo phương tiện sẽ thành quả, sám sao đây?
Có người lại luận biện “làm ác mà không nghĩ đến” thì lỗi ác coi như không có...! ... Ba cõi đâu có chấp nhận thứ luận biện kỳ khôi này.
Anh bắt con gà ông A ăn thịt, xong anh có quyền không nghĩ đến hoặc quên đi, nhưng ông A và pháp luật có quên anh không? ... Ông A và pháp luật không quên thì bản thân anh sẽ có vấn đề với ông A và pháp luật, chuyện bảo là quên hoặc không nghĩ đến của anh vô dụng...! ... Đây là chuyện thế gian còn chuyện quả báo sâu xa thì ba cõi rất công bằng. Anh có thể trả con gà nhưng chuyện anh ăn thịt con gà can tội sát sanh hại mạng thì trả bằng cái gì?
Sám hối không đơn giản chỉ là lý luận suông, hoặc quỳ lạy mà được...! ... Người tu hành thường đề cập đến nhiều loại sám hối, nào sám hối hữu tướng, sám hối vô tướng, thậm chí sám hối thiệt tướng. Những thứ này trong kinh luận có nói, nhưng để ứng dụng nó trong đời sống thì không như những gì người đời kiến giải.
Trước khi tìm hiểu cặn kẽ pháp sám hối, thử xem vì sao người tu hành lại phải sám hối?
֎Phật dạy pháp sám hối vì chúng sanh ba nghiệp đã từng phạm lỗi ác hiện đời hoặc những đời trước, trong vô minh thân khẩu ý không thanh tịnh nên thường phạm lỗi lầm. Trong kinh Địa Tạng ngài Địa Tạng nói rằng: “Chúng sanh trong ba cõi nhướng mắt nhíu mày đều tạo nghiệp.” Kinh Tiểu Bộ Phật cũng dạy: “Chúng sanh là chủ của nghiệp, nghiệp là thai tạng của chúng sanh,” có nghĩa chúng sanh tạo tác sinh nghiệp và nghiệp quay lại làm thành chúng sanh. Cái vòng lẩn quẩn này nếu không có cách dứt trừ thì luân hồi sẽ bất tận.
֎Như vậy sám hối là cách thức nào đó để nghiệp cũ không thành quả, hiện tại thân khẩu ý không tạo tác, nghiệp cũ tiêu trừ, nghiệp mới không tạo, vị lai vô sanh. Vì thế pháp sám hối tức đem ba nghiệp sám hối đến khi ba thời thanh tịnh được gọi là “giải thoát”, vì thế muốn pháp sám hối hiệu quả phải biết “nguyên lý nghiệp quả” và “cách thức sám hối”.
֎Cách thức sám hối như thế nào là điều cần sáng tỏ, giống như một người muốn đi xa, điều đầu tiên phải là người đó không bị trói buộc và tự tại trong các phương tiện. Phật dạy pháp sám hối để giúp người tu hành nhân pháp này thoát khỏi mọi hệ lụy ràng buộc ba cõi.
Kinh Tiểu Bộ Phật cũng dạy: “Những ai có tư niệm, tư lường, thầm ý, đây là cảnh sở duyên cho thức an trú, thức an trú thức tăng trưởng, thức tăng trưởng thức chọn lựa.”
֎Vâng! Nếu không biết sám hối “thức” sẽ chọn cho mình con đường phù hợp “thức nghiệp”, đấy là luân hồi vay trả.
1. Giữ giới để không tạo tác nghiệp mới.
Hối trong sám hối là không tạo tác nghiệp mới, muốn giải thoát khỏi khổ đau phiền não điều đầu tiên không tạo tác nghiệp mới là đúng. Nhưng căn cứ vào đâu và làm những gì để thân khẩu ý không phạm lỗi tạo nghiệp thì chúng sanh không làm sao biết được.
Phật là đấng thấu suốt nhân quả nên biết rõ tác hành nào là “nhân hữu lậu” tác hành nào là “nhân vô lậu”, có tạo nhân vô lậu mới gặt hái quả vô lậu. Vì thế vừa thành Đẳng Chánh Giác Phật kiết giới Bồ Tát gọi là Ba La Đề Mộc Xoa, còn có tên Tâm Địa Pháp Môn, đây là pháp môn mà tất cả chư Phật và Phật tử phải học.
Đoạn kinh sau nói rõ: “Rồi từ cung thiên vương ấy, Như Lai trở xuống, ngồi dưới cây bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na của Như Lai đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm ngài đã thường tụng. Giới pháp ấy như ngọc kim cang sáng chói, và là bản nguyên của chư Phật, của Bồ Tát, là hạt giống Phật tánh. Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp Phật tánh, và đương nhiên có cái nhân như vậy thì đương nhiên thực hiện pháp thân thường trú.
Về mười Ba la đề mộc xoa mà Như Lai sẽ nói lại như sau đây, khi xuất hiện ở thế giới này, thì đó chính là giới pháp của Phật pháp, là giới pháp mà hết thảy chúng sinh trong quá khứ vị lai và hiện tại nên kính phụng thọ trì.
Như Lai sắp sửa vì cả đại chúng ở đây mà trùng tuyên phần Giới pháp vô tận - giới pháp của hết thảy chúng sinh, bản nguyên là tự tánh thanh tịnh.”[[1]]
Vì thế chỉ có y như giới để giữ gìn thân khẩu ý mới không tạo nghiệp nhân, tác hành những gì không trái giới, không trái giới nên thân khẩu ý không lỗi lầm gọi là nhân vô lậu. Đây là vô lậu giới con đường đưa đến đạo quả vô lậu.
Tóm lại “hối” là y như giới để sám hối, đây là mực thước người tu hành căn cứ để biết đúng sai mà ngăn chừa.
2. Tu thiền định để sám lỗi xưa.
Về nguyên tắc làm lỗi với ai thì gặp người đó xin lỗi, phạm tội ở đâu thì phải được nơi đó tha tội. Chúng sanh từ vô lượng kiếp trôi lăn trong ba cõi thân khẩu ý phạm nhiều lỗi ác, vì thế muốn sám hối phải từ ba cõi mà sám. Khi ba cõi xả bỏ hết lỗi lầm mới gọi sạch nghiệp, từ đây ba thừa có ba cách sám hối khác nhau. Sở dĩ có ba cách sám hối vì ba thừa giác ngộ ý nghĩa lỗi lầm ba cõi khác nhau.
2.a. Nhị thừa: Giác ngộ ba cõi thật có, nên sám hối đối với thừa này là tuần tự xả bỏ ba cõi đó là: Sám hối trước tiên với cõi dục, khi nào thân tâm hết dục, cõi dục không còn trói buộc mới bước vào cõi sắc; ở cõi sắc, sám hối khi nào lỗi cõi sắc không còn thoát khỏi cõi sắc vào vô sắc; vô sắc hết lỗi, thân tâm tự tại gọi dùng huệ thanh tịnh vào cảnh giới giải thoát, giống như người phạm lỗi từ ba xứ sở khác nhau phải tuần tự đến từng nơi xin tha bằng cách thành tâm chừa bỏ những ngu mê ở nơi đó.
֎Sau khi ba xứ sở kia hoàn toàn không còn cột trói vì lỗi cũ, mới tự tại ra đi. Pháp sám hối này gọi là “sám hối hữu tướng”, tức y như hữu vi pháp xả bỏ, cho nên Niết Bàn nhị thừa gọi là hữu dư y Niết Bàn.
2.b. Bồ Tát: Do giác ngộ tam giới duy tâm nên dùng tâm thanh tịnh để sám. Muốn thực hiện sám pháp này phải giác ngộ chơn thiệt, tức giác được bản nguyên của tâm, y bản nguyên mà xả bỏ vọng tưởng ba cõi. Hết vọng tưởng, ngộ bản tâm thanh tịnh tự tại lại qua ba cõi vì đã hết lỗi lầm.
Pháp sám này giống người say ăn trộm gà, trong cơn say đến nhà người khác bắt trộm gà về ăn thịt, khi tỉnh dậy hối hận việc làm xưa ray rứt trong tâm, đến gặp chủ gà xin tạ lỗi...! ... Chủ gà là người có trí bảo rằng con gà anh tưởng là bắt trộm thực tế con gà đã chết vì bệnh dịch, tôi quăng bỏ nơi hố rác sau nhà định sáng ra đi chôn. Hôm qua say quá anh tưởng con gà còn sống đem về ăn thịt, anh không lỗi gì chỉ về uống thuốc cho khỏi nhiễm dịch. Người kia nghe xong tâm trí vui mừng về nhà chỉ còn uống thuốc phòng bệnh và chí thú làm ăn mọi thứ vô sự.
֎Pháp sám này gọi là “sám hối vô tướng”, tức y như vô vi mà sám cho dứt vọng tưởng ngu mê, hết ngu mê như người say được tỉnh, thấy được bản nguyên nhưng chưa sạch mê muội gọi là hữu dư y Niết Bàn vì còn thừa sót hai phần sở trí ngu.
Hạng Bồ Tát này tự tu và làm công hạnh giáo hóa chúng sanh. Giống như người mồi đèn trong động tối, một cây đèn không đủ sức sáng chỉ thấy các vật trong động nơi mình đứng, đi khắp hang động để mồi đến bao giờ tất cả cây đèn đều sáng mọi thứ trong hang động được chiếu không còn chút bóng tối gọi là thành tựu trí tuệ (vô tận đăng). Cảnh giới này mới được gọi là vô dư Niết Bàn vì không thừa sót mê lầm.
2.c. Nhất thừa: Từ thánh ngôn lượng mà giác ngộ thiệt tướng vạn pháp, hàng Bồ Tát này dùng thiệt tướng để sám. Pháp sám này giống như người ngủ mê giật mình tỉnh giấc mọi thứ chỉ là chiêm bao.
֎Nhìn cảnh vật chung quanh mới biết cảnh tượng đã gặp vừa qua trong giấc ngủ không thật, biết như vậy tâm trí an vui, pháp sám này gọi là “sám hối thiệt tướng”.
Đại Bồ Tát lại qua ba cõi giáo hóa chúng sanh không thể không có lỗi lầm cho dù lỗi lầm không lớn nhưng phải sám hối, y nơi thiệt tướng để sám gọi là sám pháp thiệt tướng. Trong kinh Đại Bảo Tích có chuyện kể: “Ngài Văn Thù Sư lợi giáo hóa một ngàn tỳ kheo, sau khi thuyết pháp xong có hai trăm tỳ kheo không giác ngộ từ nơi ý chỉ ngài Văn Thù Sư Lợi nói ra, buồn phiền bỏ đi Phật chỉ cho Văn Thù Sư Lợi biết, Văn Thù Sư Lợi hóa hiện trước mặt hai trăm vị đó thuyết lại, sau khi nghe xong rất hoan hỷ.” ... Đại Bồ Tát sám pháp là như vậy.
3.Y trí tuệ sám hối thiệt tướng:
Có thể nói pháp sám hối là phương tiện tối ưu để thành tựu đạo pháp, sám hối trong Phật pháp tức là y như học pháp vô lậu là giới-định-huệ vô lậu để sám. Đầy đủ giới định sẽ cho ra tuệ quả vô lậu.
Trong phạm vi tài liệu này không đề cập tuệ sám, vì chỉ cần y nơi giới định mà sám đối với người tu hành đã đủ, không cần thiết tìm hiểu tuệ sám, sám pháp của các Đại Bồ Tát là “tuệ sám” hay “sám thật tướng” đã giới thiệu ở phần trước.
4.Phạm vi ứng dụng của pháp sám hối:
Như vậy người chỉ có năm giới hoặc ít hơn và chưa biết ba học giới vô lậu có thực hiện sám pháp được không?
֎Phật dạy, pháp sám hối cho hết thảy hữu tình không dành riêng cho loại nào hạng nào, vì thế mọi Phật tử hay người ngoài đạo đều có thể ứng dụng pháp sám này.
Nơi sám pháp điều cốt lõi là sự thành tâm, trong đời sự thành tâm luôn đưa đến kết quả tốt đẹp. Sám lỗi trước hối lỗi sau là phương châm của người hướng thiện và thật sự cầu thị.
Đời người không thể không lỗi lầm, dù lỗi lầm có lớn đến bao nhiêu mà biết ăn năn chừa bỏ thì nhất định sẽ được tha thứ. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo, mỗi thể chế chính trị đều cùng là nhân loại và mục đích chung của con người là đem đến hạnh phúc cho mình và cho người.
Trong dân gian có câu nói: “Đánh người chạy đi không ai đánh người chạy lại,” một câu nói đáng trân trọng và thể hiện đầy đủ tính nhân bản. Câu nói trên ám chỉ những ai biết lỗi lầm mà sám hối sẽ được tha thứ.
•Chính vì thế pháp sám hối là cứu cánh trong đời sống nếu muốn an vui. Phật là đấng thập lực, những gì được tuyên xưng từ đấng này đều có giá trị vĩnh hằng và bình đẳng, vì thế sám pháp vẫn mãi tồn tại như một chân lý bất diệt.
Trong Phật pháp tính linh hoạt của sám pháp rất rộng, trong thánh pháp độ sâu của sám pháp là vô tận. Cho nên ngoài việc y học pháp vô lậu để sám, người xưa còn sáng tác ra nhiều văn sám có giá trị lưu truyền đến ngày nay như: Từ Bi Thuỷ Sám, Lương Hoàng Sám. Đây là những tác phẩm Phật giáo có giá trị thực tế rất lớn để mọi người có thể ứng dụng, phương thuốc an tâm chữa mọi căn bệnh lỗi lầm.
Xin giới thiệu một đoạn văn sám tiêu biểu trích trong Lương Hoàng Sám: “Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã cùng nhau nguyện vì chư Thiên, chư Tiên Long thần bát bộ mà lễ Phật rồi.
Nay đây nguyện vì nhơn đạo, hết thảy nhơn vương, lễ Phật mà báo ơn nhơn loại.
Lại nguyện cha mẹ, Sư trưởng và hết thảy nhơn dân mà lễ Phật. Vì sao vậy?
Vì nếu không có quốc chủ thì hết thảy chúng sanh không biết nương nhờ vào đâu. Nhờ có quốc chủ nên tất cả mọi người đều an cư lạc nghiệp; đi lại trên đất quốc chủ, sống trên đất quốc chủ, và được nhiều lợi ích khác không thể kể xiết; cho nên Đại chúng phải có lòng biết ơn và báo ơn.
Kinh dạy rằng:
Nếu người nào, ngày đêm sáu thời hay chịu khổ, vì muốn lợi ích nên nguyện báo ơn, thì phải phát tâm nghĩ như thế ấy để tu tập hạnh từ bi.
Do nguyện lực ấy, nên nghĩ báo ơn che chở của quốc chủ, nghĩ báo ơn cung cấp của thí chủ, nghĩ báo ơn sinh thành của cha mẹ; nghĩ báo ơn dạy bảo của Sư trưởng, nghĩ báo ơn tế độ của chư Phật.
Nếu người nào hay chí tâm thường niệm tưởng như vậy, người ấy nhập đạo rất mau.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy ơn lành của chư Phật, Đại thánh khai hóa dụ dỗ chúng ta, ân cần như thế, khiến chúng ta phải biết báo ơn.
Ngày nay chúng ta sanh vào đời mạt pháp, mong nhờ ơn quốc chủ mà hưng hiển được Phật pháp; nhờ quốc chủ cúng dường đầy đủ, không tiếc của báu, làm cho khắp cả nhơn dân đều noi gương quốc chủ và sanh tâm quy kính Phật Pháp Tăng.
Lại nữa người xuất gia được an tâm hành đạo, đi đứng nằm ngồi được tự do, không bị trở ngại; quốc chủ không cho người xuất gia tham dự việc đời; chỉ lo khuyên người làm lành, nguyện cho chúng sanh mau thoát khỏi sanh tử khổ đau; chỉ lo xiển dương vô lượng Pháp môn, chỉ bày đường chơn nẻo chánh cho trời và người. Nhờ ơn quốc chủ nhiều như vậy thì chúng ta đâu được không hết lòng lễ Phật để báo ơn quốc chủ, phải cùng nhau chí thành đảnh lễ nguyện vì quốc chủ mà quy y thế gian Đại từ bi phụ.”[[2]]
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






