Hữu Vô Sơ Yếu Luận 

 0
Hữu Vô Sơ Yếu Luận 

Các bạn!!!

Vừa rồi, chúng ta có bàn đến hai vấn đề được coi là lớn của Phật Đạo, đó là khái niệm “Trung Ấm” và “Nghĩa Không”.

─ “Thức” hay “Trung Ấm” là nhân tố làm nên cõi hữu.

─ Còn “nghĩa không” thì ngược lại, “nghĩa không” (rốt ráo không) trong Phật Đạo, nhằm chỉ cho sự tịch diệt vĩnh viễn tâm thức của một hữu tình, nói khác hơn nghĩa không nhằm ám chỉ một sự thức ngộ nào đó đã làm mất đi tính chất hư vọng và hữu lậu của một chúng sanh. Hai nghĩa này nếu hiểu thấu đáo, sẽ là giềng mối làm nên chơn trí.

Sau hơn một tuần yên ắng, dành thời gian cho việc chiêm nghiệm hai đề tài này. Đến nay theo mình biết, vẫn còn có một số HĐ mù mờ về Trung Ấm và Nghĩa Không. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì rằng hai đề tài chúng ta đã bàn đến thuộc loại trừu tượng, cần có một sự thâm đạt nhất định để làm nền tảng mới có thể đủ sức tham cứu hai thứ nghĩa này.

1. ĐỐI VỚI TRUNG ẤM

Muốn hiểu được Trung Ấm một cách hoàn hảo, vị tu hành này phải thoả mãn một số điều kiện nhất định trong Phật Đạo, đó là: Hoặc ở trong Đạo Đế, hoặc chứng Diệt, hoặc ít nhất cũng phải dứt Tập...

- Giống như muốn quan sát trọn vẹn sự di chuyển của một một chiếc xe đang chạy, cách tốt nhất là người này phải đứng yên bên ngoài chiếc xe và nhìn thấy tường tận chiếc xe đang chuyển động. Trường hợp này, giống như một vị đang ở trong Đạo Đế, lặng lẽ quan sát Trung Ấm.

- Nếu không được như vậy, điều kiện thứ hai để thấy được sự di chuyển của chiếc xe là, vị này phải chuyển động ngược chiều với chiếc xe kia, hoặc dừng xe của mình, để nhìn thấy chiếc xe từ xa. Trường hợp này, giống như một người đang ở trong Bất Động hoặc trên đường tiến về Diệt Đế, ngược dòng quan sát Trung Ấm.

- Trường hợp thứ ba, để có thể cảm nhận sự di chuyển của một chiếc xe, đó là vị này phải chuyển động cùng chiều, nhưng vận tốc chậm hơn vận tốc chiếc xe kia để nhìn thấy chiếc xe vượt qua mặt mình. Trường hợp này, giống như một người đã Dứt Tập, không còn bị Kiết Sử và cảnh duyên lôi kéo, hiện nghiệp đang bị chậm lại và có khuynh hướng tạm dừng.

- Tất nhiên là, đối với một vị có trí tuệ, hoàn toàn ở trong Trung Đạo, thấu suốt thật nghĩa của "có và không" thì, chẳng những họ thấy rất rõ Trung Ấm mà còn biết tường tận đường đi của nó. Giống như một người sáng mắt, nhìn bầu trời xanh, thấy con chim đang bay.

2. TRUNG ẤM LÀ GÌ

2.1.  Định nghĩa.

Trung Ấm, hay Thân Trung Ấm, Thần Thức: Là một khái niệm trừu tượng, chỉ cho Thức Ấm khi từ bỏ thân nghiệp cũ, mà chưa có được một thân nghiệp mới trong điều kiện thức này hãy còn mê, tức vô minh và hành chưa dứt.

2.2.  Bản chất của Trung Ấm.

“Trung Ấm”, chỉ là tên gọi tạm thời trường hợp “Thức Ấm” hoàn toàn rời nghiệp cũ mà chưa nhận nghiệp mới, khi nhận được thân nghiệp mới, thì danh từ Trung Ấm không còn nữa.

Vì Trung Ấm chỉ là tên gọi tạm thời trong một giai đoạn nhất định của Thức mê. Cho nên bản chất của “Trung Ấm” chính là “Thức mê”, có nghĩa không phải có một Trung Ấm và một Thức Ấm khác nhau. Nói cách khác, “Trung Ấm” và “Thức mê” chỉ là hai tên gọi của một cái gì đó.

Trước khi Phật ra đời, hữu tình không thể tự mình thoát ra khỏi sự mê muội của Thức, mặc dù không ít hữu tình cảm nhận sự trói buộc của một cõi hữu từ thức mê sản sanh, và họ cố sức tìm mọi phương cách để thoát khỏi sự trói buộc vô hình này, nhưng tất cả đều vô vọng. Nó giống như một người, không thể tự nâng mình vĩnh viễn ra khỏi mặt đất!!! Để cố gắng thoát khỏi sự cột trói của Thức, người ta đã cố hết sức, nhưng tất cả đều thất bại. Sự thất bại điển hình trong các nỗ lực này, đó là cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định mà Ngoại Đạo đã thành tựu.

Vấn đề ở chỗ, con người dù có nỗ lực đến đâu, thì sự nỗ lực này không thể vượt ra khỏi "cái biết" (Thức). Giống như, một người ngồi trong thau, nỗ lực tự nhấc cái thau lên, đây là một thực tế vô phương. Nếu có một sự thành tựu nào đó chăng nữa của những nỗ lực này, thì đó cũng chỉ là sự biến tướng của "cái biết". Cái biết biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác, đó là sự chuyển biến từ Thức mê thành Tưởng mê. Rốt cục, mê vẫn hoàn mê, chỉ khác chăng là "cách thức mê"!!!

Từ khi Phật ra đời, với trí tuệ siêu việt, và một nguồn tâm hoàn toàn tĩnh lặng. Như một người mắt sáng, nhìn vào bầu trời xanh, Đức Phật đã nhìn rõ bản chất, "sự huân biến của Thức" và phát hiện ra con đường đi, cũng như phương cách vô hiệu hoá sự dịch chuyển mê muội của Thức. Nỗ lực của hữu tình đã được đền đáp xứng đáng bởi một "sự nhìn thấy phi thường" của bậc Tam Giới Tôn. Từ đó, một giải thích cụ thể và rõ ràng về Trung Ấm đã được tuyên bố đúng với bản chất của nó.

Thức (cái biết), tự nó là không. Tức là bản chất của cái biết: Không tánh, không tướng, không giác, không mê, không chủ thể, không đối tượng, không thường, chẳng vô thường, không ngu, không trí, không trong, không ngoài, không đây, không kia, không sắc, không pháp, không màu, không mùi, không vị... Nó giống như hư không!!! Bản chất của Thức là như vậy, vì thế khi cổ Đức phát hiện ra bản chất thật của Thức, bèn tuyên bố sự chân thật này bằng một câu nói rất chân thật, đó là: "Thức tức Trí".

Thức cũng không tự mình di chuyển từ nơi này đến nơi kia, không thể tự dời đổi từ một hữu tình này đến một hữu tình khác. Nó như một quả bóng đá đặt giữa sân, quả bóng này không tự bay về phía cầu môn đội A hay đi về phía cầu môn đội B. Giống như một người hoặc ngu hoặc trí, người này ngồi tại vị trí A, thì cái biết ngu hay cái biết trí không thể tự đi đến vị trí B. Nếu muốn cái ngu hay trí này đến B, người đó phải di chuyển và mang nó theo.

Thì cũng vậy, thức mê hay thức giác tự nó không thể từ một nơi đến một nơi, thức này muốn đến được một nơi nào đó, phải có một chủ thể mang nó đi, hoặc chính nó chịu một lực tác động bên ngoài làm cho xê dịch. Giống như người ta mang quả bóng từ bên ngoài vào giữa sân, hoặc do các cầu thủ đá quả bóng này bay đi nơi khác.

Đối với hữu tình còn thọ mạng, thì thức và hữu tình đó không phải hai, nó luôn luôn cư ngụ trong các căn của hữu tình đó, khi hữu tình này tĩnh hay động, thức từ các căn, tuỳ theo sự tĩnh hay động mà làm công việc riêng của nghiệp.

Đối với một hữu tình khi thọ mạng không còn, thức từ bỏ người này, chịu sự tác động của cặp mê là tình tưởng (mê hay giác, hoặc vừa mê vừa giác) mà chuyển động. Sự chuyển động của thức, dựa trên nguyên lý lực kéo lớn hơn lực cản, tình hay tưởng cái nào lớn hơn sẽ đẩy thức chuyển động về hướng của mình.

Giống như trò chơi kéo co, đội nào mạnh hơn sẽ thắng, sợi dây và tâm điểm sẽ chạy về hướng đội thắng. Thời gian và vận tốc Trung Ấm di chuyển phụ thuộc vào lực kéo bên này và lực cản của phía bên kia. Giống như hai đội thi kéo co, sự chênh lệch về sức mạnh của hai đội sẽ cho ra vận tốc di chuyển của dấu mốc trên sợi dây và thời gian trận đấu.

Tất nhiên, trên đời rất khó có thể có một sự cân bằng tuyệt đối giữa tình (ác) và tưởng (thiện) trong một con người, vì thế không có sự đứng lặng mà không đi tìm thân nghiệp mới của một Trung Ấm do sự cân bằng tình tưởng này. Ngoại trừ các A La Hán vào chánh vị Niết Bàn, các vị này đã triệt tiêu hoàn toàn tình tưởng, động lực chính làm nên luân hồi. Tuyên bố "Sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu" của một La Hán đã nói lên sự hoàn thành tối hậu này.

2.3.  Sự có mặt của “Tình, Tưởng” trong một thức mê.

Thức tuy rằng bản chất của nó là không, nhưng tánh giác của một hữu tình khi chưa giác ngộ, đã tác động lên cái biết, làm cho cái biết động lay, sự động lay này chính là "bản chất lao lự ban sơ" của một hữu tình khi mê.

Khi Thủ Lăng Nghiêm Phật dạy: "Nơi trí Bồ Đề chăm chú phát sanh tướng mỏi mệt...". Điều này có nghĩa rằng, tánh giác do sức giác của mình, thuận theo tánh hay giác, phát sinh ra cái biết ban đầu, cái biết ban đầu đó là tưởng. Giống như một người tĩnh lặng, chăm chú nhìn vào hư không, đến một lúc nào đó, cái nhìn bị mỏi mệt, bỗng dưng hư không hiện ra hoa đốm!!! Do mê màu sắc các hoa đốm và muốn thủ giữ hoa dốm kia, tình tưởng từ đó phát sinh.

Khi hoa đốm phát sinh, người này liền quên cái tĩnh lặng mà lấy cái bị biết là hoa đốm làm đối tượng gởi gắm tâm ý, sự gởi gắm tâm ý này là nhân động lay ban đầu để từ đó hình thành những động lay sau này. Khi tâm ý và hoa đốm câu sanh, năng thủ sở thủ thành lập, chừng ấy nhận thức phân biệt liền có. Giống như trẻ con và những chùm pháo hoa, màu sắc rực rỡ của pháo hoa sẽ hấp dẫn cái thấy và làm cho đứa trẻ mê mẩn quên cả đất trời. Điều này cũng trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật ví như những bọt bóng nước lấp lánh nhiều màu sắc, trẻ con tưởng nhầm là lưu ly.

Chính sự lầm nhận tướng không thật của hoa đốm, nên một hữu tình tỏ ra thích thú (ái), rồi từ đó mong muốn chiếm hữu (thủ). Khi tâm chiếm hữu khởi lên, vị hữu tình này bèn dùng "mọi thủ đoạn" để có được nó. Vì thế tình (ác pháp, ác nhận thức) xuất hiện. Nếu vị hữu tình này, gìn giữ tình này không gián đoạn trong tâm thức (vô gián) thì một cõi ác sẽ chờ đợi khi hiện nghiệp kết thúc.

Ngược lại, có những vị chúng sanh, do ý thức được vị ngọt, sự khổ đau khi tâm ý có hy cầu và thủ giữ. Vị hữu tình này nhàm chán, luôn có ý tưởng từ bỏ, ý tưởng và sự từ bỏ này huân lâu ngày, trở thành tưởng. Khái niệm tưởng trong trường hợp này nhằm để chỉ một tâm niệm nhàm chán các ác bất thiện pháp của tình, hướng tâm địa của vị ấy đến một sự thanh cao nào đó, sự hướng đến cái thanh cao, Phật Đạo gọi là tưởng. Nếu vị hữu tình này, thủ giữ và tìm cách làm cho tưởng này không đoạn dứt, thì chính tưởng (thiện niệm) này sẽ huân thành thiện nghiệp, và cho ra một cõi nước thù thắng ở vị lai.

Nếu một hữu tình, giữa sự chiếm hữu (tình) và ý tưởng thoát ly khỏi sự chiếm hữu (tưởng) có mặt trong tâm, hai món tình (ác niệm, ác giác quán) và tưởng (thiện niệm, thiện giác quán) thay nhau làm hậu thuẫn cho một "quan niệm sống", thì vị này sẽ có kết quả là một cõi nước tuỳ vào sức mạnh của mỗi bên. Sức mạnh này tạo ra độ chênh lệch, làm định hướng cho một dòng chảy (hành) của Trung Ấm. Giống như một con kênh dẫn nước, đầu kênh thấp, chỗ nước ít, sẽ là hướng chảy về của đầu kênh cao hơn, hoặc nước nhiều hơn. Hiệu số tình-tưởng (thiện-ác) sai biệt, sẽ làm cho tâm thức vị này chảy và chảy mãi không ngừng!!!

Như vậy, chúng ta có thể hiểu, cái "lao lự ban sơ" của một hữu tình, là một hình thức "thất niệm", làm cho tình và tưởng có mặt. Sự có mặt của tình tưởng đã làm cho hữu tình này bị che đậy bởi nó, và sự che đậy này làm cho hữu tình không còn nhận cái "tĩnh lặng trong sạch" ban đầu, sự che đậy này Phật Đạo gọi là vô minh.

Tình hay tưởng, bản chất của nó tự không có gì là minh hay vô minh, nhưng nếu mê một thứ hoặc mê cả hai, thì chính cái mê này che đậy sự thuần khiết của thức. Tình tưởng giống như hai tấm vải, một tấm màu đen và một tấm màu trắng, cả hai tấm vải đen hoặc trắng này tự thân không có giá trị ngăn che. Nhưng nếu, một người dùng hoặc vải đen, hoặc miếng vải trắng, hoặc cả hai bịt kín cặp mắt của mình, thì bây giờ các miếng vải mới trở thành công cụ che lấp.

Tóm lại, nếu một hữu tình bị tình hay tưởng hoặc cả hai che mờ tâm ý, bây giờ hữu tình đó không thoát ra khỏi sự che chướng này, và mọi hiểu biết, các nhận định không ra khỏi màu sắc của sự che lấp ấy. Phật Giáo gọi sự che lấp kể trên là sự u tối hay vô minh. Và nhất định, hữu tình này phải đi theo sự u tối nói trên.

2.4.  Sự duyên nhau của Trung Ấm.

Như chúng ta đã biết, Trung Ấm thuộc về tiền tế, nó làm nên ba chi đầu của mười hai nhân duyên. Trước khi Trung Ấm nhập vào danh sắc để hoàn thành nhiệm vụ của mình, thì Trung Ấm có đủ thành tố của ba chi tiền tế, đó là: Vô minh, hành, thức.

  • Vô minh: Kết quả của mê mờ tình tưởng và bị tình tưởng ngăn che.
  • Hành: Tình và tưởng làm lực đẩy và lực cản tạo thành động lực để thức mê di chuyển theo phương của mình.
  • Thức: Bản chất của Trung Ấm.

Chính nhờ vào ba duyên này, mà Trung Ấm có thể dịch chuyển để duyên một khối lượng mê vô hình vô tướng đến danh sắc. Khi Trung Ấm đến được nơi cần đến (danh sắc), thì vai trò của Trung Ấm hoàn toàn chấm dứt, trả thức về đúng với chức năng "hoàn thiện một hiện nghiệp" của nó. Vì thế các chi sau gồm danh sắc, lục nhập, xúc thọ... ra đời.

2.5.  Năng lực giao tiếp của Trung Ấm.

Khi rời khỏi báo thân, mọi khả năng giao tiếp của Trung Ấm đều hoàn toàn bị vô hiệu, tức là năng lực giao tiếp với thế giới bên ngoài của Trung Ấm không còn nữa.

Mặc dù trong thức có đầy đủ tính chất của sự nhận biết, nhưng những tính chất này không thể tiếp cận được các tín hiệu từ thế giới bên ngoài, vì các công cụ tiếp nhận không còn nữa. Một con người, muốn thấy phải có con mắt, muốn nghe phải có lỗ tai, muốn ngửi phải có lỗ mũi... Các căn, chính là công cụ để thức lấy đây mà tiếp cận và nhận biết, một khi các công cụ này không còn, sự tiếp xúc của thức, hay nói khác đi là sự nhận biết của Trung Ấm hoàn toàn tê liệt.

Giống như một cái Amply, trong cái âm ly có đủ tính năng của thu và phát cũng như khuếch đại tín hiệu. Tuy âm ly có những chức năng này, nhưng nếu cái âm ly đó không có micro thì chức năng thu không sử dụng được, đối với phát và khuếch đại phải nhờ cái loa, nếu không có cái loa, việc phát và khuếch đại tín hiệu sẽ không thể thực hiện.

Thức hay Trung Ấm khi rời bỏ thân, các căn không còn, Trung Ấm không thể giao tiếp với thế giới bên ngoài cũng giống như vậy. Chính vì điều này, trong kinh A Di Đà, Phật mới dạy: "Khi sắp lâm chung, nếu người này gặp được Thiện Tri Thức giảng nói mười hai bộ kinh, người này có thể vãng sanh". Điều này muốn nói rằng, thần thức chỉ có thể giao tiếp với thế giới bên ngoài (không phải thế giới nội tâm), khi nào thức vẫn còn cộng trú với thân nghiệp.

Cũng có những trường hợp, thức vẫn còn cộng trú với thân nghiệp, nhưng khả năng giao tiếp với thế giới bên ngoài tạm dừng.

Ví như người ngủ mê, chết giấc... Sự không thể giao tiếp với thế giới bên ngoài tạm thời này sở dĩ xuất hiện, vì lúc đó thức tạm thời yên nghỉ, hoặc thức không còn hiện diện ở các căn do một sự cố ngoài mong muốn nào đó đột ngột xảy ra...

Điều này giống như một cái âm ly[[1]] còn sử dụng được, có đầy đủ micro và loa, nhưng tạm thời mất điện. Thức tạm ngừng nhận biết giống như hệ thống âm ly tạm mất điện không làm được các chức năng thu phát của mình.

3.  VÌ SAO CẦN CÓ SỰ THẤU ĐÁO VỀ THỨC VÀ TRUNG ẤM

Trong các Kinh Đại Thừa, khi giảng nói về mười hai nhân duyên, Phật thường dạy rằng: "Đối với mười hai nhân duyên, kẻ đại căn quán thấu suốt mười hai chi thấy Phật Tánh, người trung căn quán nó được Niết Bàn, kẻ hạ căn quán xong ra khỏi khổ sanh diệt...". Vì sao đồng là mười hai nhân duyên, mà khi quán nó lại thành tựu sai biệt như vậy???

Nếu nghiêm cẩn tư duy lời kinh trên, ta sẽ thấy toàn bộ sự sâu mầu của giáo pháp ẩn chứa trong mười hai nhân duyên. Xét bản chất đích thực của mười hai nhân duyên, trong mười hai chi đó, không có gì khác hơn là Thức và Vô minh, tức là chính cái biết và sự u tối bao trùm cái biết này. Cả hai thứ nói trên duyên cho nhau, làm nên một vòng tròn luẩn quẩn vô hình nhưng lại có năng lực cột buộc, khiến chúng sanh không thể nào thoát khỏi nó. Cái vòng cột buộc này Phật Đạo gọi là mười hai nhân duyên.

Vì sao đồng là mười hai nhân duyên, mà ba loại căn trí khác nhau khi nhìn về nó, lại cho ra ba thành tựu sai khác như kinh đã nói???

Muốn lý giải thấu đáo sự tình này, chúng ta phải khảo sát sự luân chuyển của mười hai nhân duyên, và tìm xem mười hai nhân duyên hình thành qua mấy giai đoạn.

Vòng đời của một chúng sanh, hay vòng tròn mười hai nhân duyên gồm mười hai chi, chia thành ba giai đoạn như sau:

  • Giai đoạn tiền tế gồm: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập (nội).
  • Giai đoạn trung tế: Lục nhập (ngoại), xúc, thọ, ái, thủ.
  • Giai đoạn hậu tế: Hữu, sanh, lão tử.

Căn cứ ba giai đoạn nêu trên, chúng ta thấy rằng:

3.1.  Giai đoạn tiền tế.

Tức là sự việc đã qua rồi, không có trong hiện tại.

Một chúng sanh bình thường, tâm ý còn hữu lậu thì không thể có năng lực quán giai đoạn này.

Muốn thấu suốt tiền tế, chí ít người này phải ở trong Đạo Đế, dùng tánh giác lặng lẽ quán sát. Nếu chỉ thành tựu Tập Đế và Diệt Đế thì có khởi tâm quán tiền tế, cũng như "cỡi ngựa xem hoa", có nhận biết chút ít về nó, nhưng không thể thấy trọn vẹn và đầy đủ.

Vì thế, nếu người tu hành hội đủ một số điều kiện nhất định, có năng lực quán thông suốt tiền tế, hay thấy rõ Trung Ấm, vị này cơ may phát sanh trí tuệ rất lớn. Có được trí tuệ, việc thấy Phật Tánh là điều hiển nhiên.

Chính vì vậy, mà Phật dạy: “Kẻ thượng căn (thượng trí) quán mười hai nhân duyên sẽ thấy được Phật Tánh”.

3.2.  Giai đoạn Trung tế.

Đây là giai đoạn vô minh cùng thức hiện tiền đang làm chủ sự nhận biết trên cơ sở xúc đối. Vô minh và thức lúc này thay đổi tướng trạng và chức năng của nó, cho nên tên của nó cũng được thay đổi theo. Trung tế gồm có năm chi, đó là: Ngoại lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ.

Trung tế trong mười hai nhân duyên, là thuật ngữ nhằm chỉ cho những gì xảy ra trước mắt của cuộc sống. Các chi của nó gồm: Ngoại lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ. Một người với số vốn kiến thức vừa đủ về Phật học và biết cách quan sát, có thể nhận biết được những gì thuộc trung tế.

Trong các chi này, chỉ cần quyết tâm dừng một chi, các chi khác sẽ tự tịch diệt. Sự tịch diệt này dựa trên nguyên lý luân chuyển hay hoàn diệt của mười hai nhân duyên. Khi một chi đã dừng, vòng tròn hư ảo của sanh diệt luân hồi không thể hình thành. Nó giống như một đóm lửa được quay tròn, đóm lửa di chuyển từ điểm này đến điểm khác tạo thành một vòng tròn lửa, chỉ cần đóm lửa này dừng ở bất kỳ điểm nào, vòng lửa hư ảo kia tự động không còn nữa. Mười hai nhân duyên, bản chất của nó là vô minh và thức di chuyển qua mười hai điểm trên một quỹ đạo, tạo thành vòng tròn khép kín, vòng tròn này nếu không được ngăn chặn và phá vỡ, thì nó sẽ tiếp tục luân hồi đến bất tận!!!

Trong mười hai chi, những chi thuộc nhóm tiền tế đã qua rồi, không thể dừng trong hiện tại. Còn các chi thuộc về hậu tế thì chưa đến, mà cái chưa đến ta không thể buộc nó dừng. Vì thế, người tu tập phần lớn chọn phương cách bắt nó dừng ở trung tế, tức là tịch diệt những gì đang xảy ra trong hiện tiền đời sống. Khi một chi của trung tế tịch diệt, mười hai chi tự tịch diệt theo nguyên lý vòng lửa nói trên.

Vì thế, Phật nói kẻ trung căn khi quán mười hai nhân duyên sẽ thành tựu Niết Bàn. Điều này có nghĩa, đối với phần lớn người tu hành, cách khôn ngoan và hiệu quả nhất để chấm dứt vòng luân hồi luẩn quẩn, đó là nhắm ngay trung tế mà tịch diệt.

3.3.  Giai đoạn Hậu tế.

Hậu tế là những gì thuộc mé sau, nó gồm những điều chưa xảy ra trong hiện tại. Hậu tế gồm các chi: Hữu, sanh, lão tử.

Chữ hữu ở đây ám chỉ thân sau (hậu hữu thân), một đời sống (cõi hữu) sau đó được tiếp nối trong khổ sở do thức mê làm chủ và vô minh dẫn đường. Cái chưa đến ta không thể thấy và không thể bắt nó dừng hoặc từ chối nhận chịu trong hiện tại.

Ta chỉ có thể cảm nhận về nó, hoặc nhìn những đối tượng khác ngoài ta đang chịu thống khổ do các chi này mà biết. Hữu, sanh, lão tử tuy chính bản thân của mỗi người chưa từng trải qua trong hiện kiếp, nhưng nó lại là nỗi ám ảnh đáng ghê sợ và thường trực tác động lên đời sống. Nỗi ám ảnh ghê sợ và sự tác động thường trực này, lại là tác nhân giúp nhiều người nhìn lại chính mình và mong muốn thoát ra khỏi nó, đây là động cơ khiến phần lớn người đời tìm đến Phật Đạo, và họ cũng biết chắc rằng: Chỉ có Phật Đạo mới đủ khả năng giúp họ thoát khỏi sự ghê sợ này...!!!

Muốn thoát khỏi nạn tai của hậu tế, người này phải nhàm chán sanh tử, mau chóng cầu được Niết Bàn. Đây là nguyên nhân chính để Nhị thừa xuất hiện. Để cầu được Niết Bàn, Nhị thừa phải tuân thủ hai điều cơ bản nhằm dứt tình tưởng, làm cho thức cùng vô minh không còn động lực trong hiện tại để có khả năng tiếp tục di chuyển đến hậu tế.

Để dứt tình, Nhị thừa phải từ bỏ tất cả những gì khiến mình ái luyến, đó là "cắt ái ly gia". Để dứt tưởng, vị này phải xuyên suốt thiền định như pháp nhằm yểm ly dần dần cõi hữu. Đến khi thành tựu như pháp, tình và tưởng của vị này hoàn toàn tịch diệt, gọi là "sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu".

Nhị thừa ghê sợ hậu tế, và ứng dụng tu tập để vô hiệu hoá nó liền được ra khỏi khổ sanh diệt. Cho nên Phật dạy: "Cũng mười hai nhân duyên, mà kẻ hạ căn quán nó, sẽ ra khỏi khổ sanh diệt luân hồi".

Tóm lại: Trung Ấm, thức, vô minh. Tên gọi có nhiều, nhưng tựu trung nó chỉ là sản phẩm của thức mê. Thức mê sinh ra pháp mê, pháp mê sinh ra tâm mê, tâm mê cho ra ba cõi hữu. Nếu thức không bị mê bao phủ, thì pháp không tự sanh, pháp không tự sanh tâm không tự sanh, tâm không tự sanh ba cõi trở thành không. Nếu quán được như thế, ngay hiện tiền này chẳng có gì sanh, chẳng có gì sanh chẳng có gì bị diệt, không sanh không diệt gọi là rốt ráo không. Kinh Đại Niết Bàn có dạy rằng: "Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".

Để minh hoạ một cách cụ thể về Trung Ấm, Kinh Đại Bảo Tích Phật nói như sau: "Trung ấm không phải sắc, nó như gió, khi gió thổi qua rừng chiên đàn thì mang theo hương thơm, khi thổi qua thi lâm thì mang theo mùi xú uế..."

Đến đây, coi như những gì sơ yếu nhất về Trung Ấm và thức đã được chúng ta điểm qua. Trong Phật Đạo, nếu chỉ dừng lại ở công việc tự cứu, không cần phải đào sâu về Trung Ấm và thức. Nhưng trong Bồ Tát Đạo thì lại khác, không biết tường tận về Trung Ấm và thức, sẽ không thể thấu suốt nguyên uỷ trôi lăn của một hữu tình, mà đã không thấu suốt cái gì trôi lăn và động lực nào làm cho trôi lăn, sẽ không thể sản sinh những phương tiện giúp người dừng sự trôi lăn đó một cách thoả đáng. Thậm chí đôi khi Trung Ấm được hiểu lầm, sẽ dẫn đến những giải thích mang đậm "màu sắc mê muội". Những giải thích như thế chẳng những không làm cho người có chánh kiến để có thể tự cởi trói, mà còn khiến người thêm hồ nghi, hoang mang và đắm chìm sâu hơn trong tà pháp.

4.   NGHĨA “KHÔNG” ĐÍCH THỰC

Trong Phật Đạo, muốn vào Nhất thừa và thể nhập Trung Đạo, có hai điều cơ bản mà người tu hành phải tường tận, hai điều này giống như đôi chân của một con người. Nếu chỉ có một chân, hoặc đôi chân khập khiểng, thì mỗi bước đi của người đó không thanh thoát và sẽ rất nặng nề, thậm chí vị ấy khó có thể thực hiện một cuộc hành trình dài hơi như một người có đôi chân lành lặn.

Hai điều cơ bản này là "hữu và vô" tức là có và không. Phần trên, chúng ta đã khảo sát những ý nghĩa cơ bản nhất về những gì được gọi là có (hữu) trong ý nghĩa của Phật Pháp. Khi biết rõ bản chất của cái gọi là có, cơ may thấu suốt nghĩa không mới có thể thành công.

®"Nhất thiết Phật ngữ tâm", câu nói này của người xưa chính là tuyên ngôn minh định trọng tâm của giáo pháp. Có nghĩa rằng, giáo pháp của Đức Phật chỉ dạy người hàng phục tâm này, ngoài tôn chỉ này, không còn mục đích khác.

Mê cũng tại tâm này, ngộ cũng tại tâm này. Khi mê tâm ấy là ma, ngộ rồi mới biết tâm ấy là Phật!!! Khi mê, toàn tâm là hữu (có), ngộ rồi tâm ấy tự không (vô). Dứt mê dứt ngộ, tâm còn không có, hà huống có hữu với vô. Như vậy, nói hữu hay vô, hữu vô này đều không thật, khi nào không còn thấy có hữu hay vô mới gọi là rốt ráo vô. Vì thế "rốt ráo không" là chân thật ngữ.

Như đã nói ở trên, tất cả lời Phật đều nhằm chỉ tâm, vì thế tất cả nghĩa không mà Phật tuyên thuyết đều nhằm mục đích nói lên một sự thật, bản lai tâm này vốn tự không, chỉ một niệm mê ban sơ mà thấy thành có. Giống như người nhặm mắt, do mắt nhặm mà thấy hoa đốm trong hư không, trong lúc người kia nhặm mắt thấy hư không có hoa đốm, thực tế lúc đó, hư không chẳng sanh ra hoa đốm. Những ai sáng mắt, mắt không bệnh sẽ chứng thực điều này.

Cũng như thế, khi một hữu tình đang mê, toàn tâm hữu tình này là hữu, và cái hữu đó chỉ do thức mê nhận biết. Giống như thực tế hư không kia không hề sanh hoa đốm, chỉ do mắt bệnh thấy ra như vậy. Thì cũng vậy, trong lúc tâm mê tưởng ra cái hữu, thức mê nhận lấy cái hữu này làm ta, thực tế lúc đó, lúc chúng sanh đang mê cũng không có cái gì là hữu. Giống như người ngủ mê, nằm mơ thấy thành ấp xóm làng, trong lúc vị kia thấy thành ấp xóm làng, không có nghĩa rằng thành ấp xóm làng này thực có.

Tâm mê cho ra ba cõi hữu, thức mê cho ra hư vọng pháp, ba cõi hữu và hư vọng pháp này nó giống như cảnh tượng chiêm bao, các thứ ấy chỉ hiện trong mê rồi nhận lầm in tuồng là có. Vì thế Phật dạy: "Các pháp, không tánh, không tướng..."

  • Tóm lại: Nghĩa không đích thực mà Phật tuyên thuyết, đó là thật ngữ. Thật ngữ này nói lên một sự thật là: Bản lai tâm này tự không, quá khứ không, vị lai không và hiện tại cũng không. Tất cả những thứ được gọi là hữu (có) đó, chỉ là giấc mộng đêm qua...!!!

5.  TRUNG ĐẠO LÀ GÌ?

Trong Phật Đạo, một trong những nghĩa khó hiểu và khó

thể nhập nhất, đó là nghĩa Trung Đạo. Trung Đạo là kết quả của sự thành tựu viên mãn Đạo Đế.

Trung Đạo chính là kết quả viên mãn của từ và bi. Từ tâm và bi tâm khi thành tựu sẽ cho ra nghĩa Trung Đạo. Như vậy có thể hiểu: Trung Đạo chính là sự thể hiện chân lý một cách tối ưu trong đời sống vì vạn loại hữu tình. Vì sao nó lại như vậy???

Thuật ngữ Trung Đạo trong Phật giáo không phải là trung bình cộng của một phép tính, nó lại càng không phải con đường đi ở chính giữa hai biên. Mà Trung Đạo là sự hoạt dụng tối ưu từ hai nghĩa “có” và “không” để sinh ra các phương tiện thiện xảo nhất, sự hoạt dụng thiện xảo này, Phật Đạo gọi đó là từ bi. Vì thế mới nói: "Muốn vào Nhất thừa và thể nhập Trung Đạo, có hai điều cơ bản mà người tu hành phải tường tận, hai điều này giống như đôi chân của một con người. Đó là hai nghĩa có và không..."

Hai nghĩa có và không nếu thấu suốt được, hai nghĩa này đồng là thiện phương tiện giúp người chấm dứt sanh diệt, thành tựu cứu cánh Niết Bàn. Vì rằng, bản nguyên của có hay không tự nó không sanh diệt, tự nó đã sẵn cứu cánh Niết Bàn, không phải đợi đến dứt hữu hoặc toàn không mới thành tựu Niết Bàn. Vì thế, vị tu hành thấu suốt nghĩa Trung Đạo, vị ấy ở nơi mà chúng sanh thấy đó là cõi hữu, nơi ấy cũng Niết Bàn. Vị ấy ở nơi mà chúng sanh thấy đó là cõi không, cõi ấy cũng Niết Bàn. Hữu vô đồng là không, nên cái rốt ráo không lại hàm chứa nghĩa Trung Đạo.

Có nghĩa khi vị ấy tuyên thuyết rằng có, lời tuyên thuyết này vì lợi ích chúng sanh. Vị ấy tuyên thuyết rằng không, lời tuyên thuyết này cũng chỉ vì lợi ích chúng sanh. Vì có không đều là thiện phương tiện để giúp người đến cứu cánh an vui, còn tự thân họ chính là rốt ráo không, nên vị này chẳng thấy có hay không...!!! Bài kệ tán Phật của Ngài Đại Huệ trong Kinh Lăng Già tuyên thuyết việc này như sau:

" Thế gian lìa sanh diệt

Ví như hư không hoa

Trí chẳng thấy có, không

Mà khởi tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn

Xa lìa nơi tâm thức

Trí chẳng thấy có, không

Mà khởi tâm đại bi

Xa lìa chấp đoạn thường

Thế gian hằng như mộng

Trí chẳng thấy có, không

Mà khởi tâm đại bi

Biết nhân pháp vô ngã

Phiền não và sở tri

Thường thanh tịnh không tướng

Mà khởi tâm đại bi

Tất cả không Niết Bàn

Không Niết Bàn của Phật

Không có Phật Niết Bàn

Xa lìa giác, sở giác

Hoặc có, hoặc không có

Cả hai thảy đều lìa

Quán Mâu Ni tịch tĩnh

Thế là xa lìa sanh

Ấy gọi là chẳng thủ

Đời này đời sau tịnh" [[2]]

Để minh hoạ cho Trung Đạo, ví dụ sau đây có thể giúp HĐ nhìn ra điều gì đó trong sự hoạt dụng tối ưu của nó:

Như một con nhện, nó giăng thành cái mạng nhện để bắt mồi và làm chỗ đi lại. Tất cả các con vật bay qua mạng nhện này đều bị mắc kẹt lại và có thể trở thành con mồi!!! Nhưng riêng con nhện, nó tự tại chạy khắp mọi nơi trên mạng, con nhện đứng đi ở mép rìa mạng nhện, hay đứng đi chính giữa mạng đều yên ổn và vô ngại...!!! Con nhện dụ cho vị tu hành thông tuệ, mạng nhện dụ cho giáo pháp, sự vướng vào dụ cho chúng sanh và ba cõi, con mồi dụ cho vô minh. Nơi con nhện đến và đi dụ cho Trung Đạo!!! Ha ha ha ha!!! Con nhện thông tuệ, sẽ ăn nuốt vô minh, và vô minh là...thức ăn...của...nó!!!

Các bạn!!! Trung Đạo là như thế!!! Nó đích thị là như thế!!!

Như thế và như thế!!!

6.  TÂM SỰ THAY TỔNG LUẬN

Như vậy là chúng ta đã sơ lược khảo sát hai ý nghĩa trọng yếu làm tiền đề để vị lai thâm nhập trí tuệ.

Mình nghĩ, khi bài viết này chuyển đến các bạn. Một số bạn sẽ nhân đây mà thành tựu thêm điều gì đó!!! Trong đó cũng có bạn đọc sơ qua rồi xếp nó vào...quá khứ!!! Một số bạn sẽ "ngáp dài" vì quá nhiều chữ!!! Nhân sinh là như vậy, và như vậy chúng ta mới gặp nhau!!!

Mình hy vọng, bài viết này sẽ không vô duyên như lời than thở của Kiều Thi Ca khi nghe Ngài Tu Bồ Đề thuyết pháp: "Bạch Thế Tôn, khi Ngài Tu Bồ Đề tuyên nói về Bát Nhã, chúng con không hiểu. Ngài ấy cố sức thuyết và cho ra nhiều ví dụ, chúng con lại càng không hiểu gì hết..."                 Ha ha ha ha!!!

Các bạn!!!

Phật dạy rằng: "Một đóm lửa nhỏ, có thể thách thức một khu rừng lớn...". Không biết bài viết này là hữu duyên hay vô duyên, nhưng như Ngài Tu Bồ Đề, dù vô duyên cũng cứ thuyết. Vì thế, mình đã đem hết tâm nguyện để gởi gắm vào bài viết này. Với những mong, nó như một đóm lửa nhỏ, có thể nhen nhúm một chút xíu lửa ít ỏi trong lòng HĐ nào đó. Biết đâu vị lai, đóm lửa nhỏ này có thể thách thức tam thiên đại thiên thế giới rừng rậm vô minh!!!

                                                                      (23-07-2014)  

−−−••• ⁕ ⁕  ۝⁕ ⁕ •••−−−

[[1]] âm ly (tiếng Anh: amplifier): Máy khuếch đại âm thanh.

[[2]] Trích Kinh Lăng Già; HT. Thích Thanh Từ dịch

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 1
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG