Kinh Hoa Thủ 7
Phật bảo A Nan, Bồ Tát có bốn pháp, nghe thuyết pháp hiểu rõ nghĩa thú nên được trí huệ, nhận được pháp, được niệm kiên cố, đầy đủ oai nghi. Những gì là bốn?

31. Phẩm Vị Pháp Thứ Ba Mươi Mốt
Phật bảo A Nan, Bồ Tát có bốn pháp, nghe thuyết pháp hiểu rõ nghĩa thú nên được trí huệ, nhận được pháp, được niệm kiên cố, đầy đủ oai nghi. Những gì là bốn?
1) Phát tâm chuyên cần tu hành pháp Ðại Thừa mầu nhiệm
2) Hiểu được kinh pháp, thực hành đúng giáo pháp
3) Tự thực hành giáo pháp cũng như khuyến khích, hướng dẫn chúng sanh hướng về giáo pháp.
4) Khi chúng sanh đã vào trong giáo pháp nên giải rõ, chỉ bày những điều lợi lạc.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Bồ Tát cầu pháp mầu
nên được vui vô thượng.
Pháp như thế chưa được
giữa đường không chán chường.
Nghe pháp sâu mầu này
suy tư ngẫm một mình.
Nghe pháp như thế rồi
luôn nhứt tâm tu học
thường giáo hóa tha nhân
hành như ta đã hành
không những chỉ nói suông
còn đích thân chỉ đạo.
Lại nữa A Nan, Ðại Bồ Tát vì pháp đây nên thường theo pháp sư, và suy nghĩ thế này: pháp ta chưa được nghe, chưa biết, nếu trái ngược lại mất hết lợi lớn. Lúc đó đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:
Nếu có nhiều người nghe
thường theo sát thân cận
xem ta đấng pháp vương
vì tu pháp vô thượng
như chưa hề từng được
nghe, hiểu nghĩa thú kinh
nhân đó trái hủy khinh
mất lợi lạc phước đức.
Nếu kiên cố chuyên tinh
xa hẳn nhiễm dục tình
thường cầu pháp quyết định
làm tăng thêm trí tuệ
thiện tri thức thân cận
nghe nhiều và hiểu rộng.
Vì chúng đáng tôn kính
đọc tụng thọ trì kinh.
Lại này A Nan, Ðại Bồ Tát như đã nghe pháp đem giảng rộng cho người, không làm cho giáo pháp bị tổn hại. Này A Nan, sao là pháp bị tổn hại ?. Nếu có tỳ kheo tham đắm danh lợi, y phục, ăn uống, giường tòa, thuốc thang… những thứ nhu cầu lợi dưỡng. Vì người mà khoe rằng tôi tu hạnh đầu đà, giữ giới thanh tịnh đúng pháp ‘không tướng’. Thật ra thì không theo đúng Pháp tu hành. Ấy là tỳ kheo làm tổn hại giáo pháp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Bồ Tát nghe pháp xong
vì đại chúng giảng truyền
nên thực hành như Phật
chớ làm hại giáo pháp
cũng đừng vì lợi dưỡng
cũng chớ vì tán dương
tâm từ bi niệm thường
để thuyết pháp vô thượng.
Trong chúng sanh khổ não
khởi lòng đại từ bi
thuyết pháp quyết tâm vì
làm lợi lạc hữu tình.
Nếu người lấy lợi dưỡng
vì đại chúng thuyết giảng
nương theo lợi thế gian
thì tổn pháp nguy nàn.
Người trí nên chuyên gần
học hỏi những điều hay
không làm pháp hoại suy
ấy là ủng hộ pháp
mười phương chư tôn Phật
đều xưng tán người này
nói pháp tuyệt! lành thay!
thực hành pháp cùng nhau…
Lại này A Nan, lúc cầu pháp Ðại Bồ Tát không nên xem pháp sư bằng cặp mắt thiếu thiện cảm như khinh khi, ngạo mạn mà nên theo đúng cách trong việc nhứt tâm cầu pháp. Này A Nan, thế nào là Bồ Tát cầu pháp đúng cách ?
Nếu các bậc sư trưởng có dạy bảo giáo pháp nên an trụ trong đó mà thực hành đầy đủ tinh tấn tu hành, đem các thứ vải vóc, thức ăn, đồ mặc, giường nệm, thuốc thang sửa sang đem cúng dường pháp sư. Ấy là Bồ Tát cầu pháp đúng cách.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
Lúc Bồ Tát cầu pháp
không chỉ lỗi pháp sư
nên vì người giảng thuyết
mình cũng trụ trong pháp.
Lúc Bồ Tát cầu pháp
theo như thuyết an trụ
đúng pháp mà cầu pháp
là an trụ trong pháp.
Vì thế người cầu pháp
nên trụ như trên đây
Ấy là pháp ban đầu
gọi là hành đúng pháp.
Pháp vắng lặng chứng đạt
như ta đã tuyên thuyết
pháp như thế học được
chứng Bồ Ðề vô thượng.
Cần cầu pháp niệm thường
tâm trọng kính phát sinh
Nghe pháp xong nhất tâm
nên nghĩ tới Thế Tôn.
Suy nghĩ như thế luôn
là thầy ta chẳng khác.
Người này chỉ đạo ta
khiến an trụ chánh đạo
ấy là Thế Tôn ta
tâm càng thêm tôn kính
Ðó là đại sư ta
vui thế gian lánh xa.
A Nan ông nên biết
lui về thời quá khứ
quá vô lượng vô biên
số kiếp không thể cùng
có đức Phật ra đời
là Tu Di Sơn Vương
Sau khi Phật diệt độ
đệ tử Vi Ðầu La
lợi căn, trí huệ sáng
vì chúng, pháp xưng tán
hiểu rõ nghĩa sâu mầu
thông suốt ấm, giới, nhập
nên đạt đến bờ giác
phân biệt A Tỳ Ðàm (10)
khéo tu học ba môn (11)
kiên trì tạng Phật pháp
Tu Di Sơn Vương Phật
càng thêm thần thông lực
cầu đại trí chư Phật
thấu đạt pháp vi diệu.
Ấy tỳ kheo phước đức
nói khó thể hết được.
Trong thành Hoa Ðại kia
có một vị trưởng giả
giàu có nhiều của cải
phước đức tột cao sang
ông thích ưa làm thiện
được nhiều người kính trọng
giữ giới có đức hạnh
nghe nhiều truyền bá rộng
Một hôm đích thân ông
đến chỗ Vi Ðầu La
nên được trí văn đa
tùy thời mà thuyết pháp.
Trưởng giả nghe thâm nhập
lòng vui phát nguyện rằng:
tài sản của ta sẵn
đem hết cúng dường tăng.
Lúc đó tỳ kheo rằng
lành thay! bố thí đặng
nghe pháp tin hiểu hẳn
là căn bản Phật pháp.
Ðem tài sản, của vật
dâng cúng pháp sư xong,
vào năm tuổi hai mươi
theo hầu làm thị giả
trưởng giả Lạc Thiện đã
lúc gần gủi pháp sư
được nghe pháp nhiều thứ
tâm không hề mỏi chán.
Lại cũng phát tâm thêm:
muốn cúng dường đủ loại.
Lúc cúng như thế đó
tâm chẳng hề giải đãi
một lần đến thăm hỏi
cầm hai mươi ức tiền
để dâng cúng pháp sư
thọ nhận chẳng chối từ
Như thế cứ tuần tự
tùy thời cung cấp đủ
cúng dường với lòng từ
đại hoan hỷ tâm tư
Vi Ðầu La pháp sư
có nuôi các đệ tử
đều được cung cấp đủ
mỗi vị ngàn lạng vàng.
Cúng dường như thế xong
cùng ba y mỗi vị
mỗi một y giá trị
hai mươi ức lạng vàng
cũng vì Vi Ðầu La
và tăng đoàn xuất gia
xây cất mỗi phòng xá
cao rộng đẹp xinh lạ;
cũng như xây tháp quá
mỗi hai mươi ức lạng
giường gối và mùng màn
đều đầy đủ nghiêm trang.
Pháp sư tùy thời gian
mà thuyết pháp cúng dàng
làm lợi ích chúng nhân
trọn cuộc đời dấn thân.
Lạc Thiện trưởng giả đây
càng cung phụng hầu hạ
chứa hương thơm quí lạ
dựng tháp trăm do tuần.
Tháp báu cao bảy tầng
toàn chứa xá lợi Thầy
tôn quí đại tháp này
đem hương hoa phụng nạp.
Lạc Thiện trưởng giả đây
đã thiết cúng thế này
gặp được vô lượng Phật
chẳng sa vào đường ác
nhân duyên tạo phước đức
trong tám mươi ức kiếp
thường làm Ðại Phạm Vương
hằng thấy chư Phật luôn
tám mươi ức kiếp tròn
làm vua trời Ðao Lợi
thường được gặp chư Phật
dâng cúng dường đủ loại;
cũng trong nhiều kiếp nữa
làm chuyển luân thánh vương
chư Phật được thấy thường
cũng thâm tín cúng dường.
Từ đó theo thứ tự
lại gặp được vô lượng
vô số a tăng kỳ
na do tha chư Phật.
Gặp chư Phật thế xong
cũng cung phụng một lòng
hay hỏi qua Phật đạo
Phật tùy nghĩa chỉ giáo:
A Nan con chớ bảo
ở trong thành Hoa Ðại
Ðại Danh trưởng giả kia
là người nào khác lạ?
Hoài nghi con nên xóa
nay đây chính thân ta.
Bấy giờ ta cung cấp
pháp sư Vi Ðầu La
vì muốn nghe Phật pháp
mà làm việc cúng dường
do nhờ phước nhân duyên
được Bồ Ðề vô thượng
Ta cung cấp pháp sư
tạo căn lành công đức
đại quả báo hoàn tất
đến nay vẫn không hết.
Ta nhờ nhân duyên trước
đời đời được tôn quí
gặp chư Phật như thế
để cùng nghe Phật pháp
chư Phật cũng giải đáp
như ta nay không khác
Ấy là chân đạo Phật
Các vị nên tu học.
A Nan bạch Phật rằng: thật là hy hữu, Như Lai từ vô thỉ đến nay tích chứa phước đức sâu dày, trong đời quá khứ thường được người tôn quí. Thế Tôn, Vi Tu La tỳ kheo trong hiện tại đã nhập Niết Bàn. Phật bảo A Nan, vị tỳ kheo này tới nay chưa nhập Niết Bàn mà đang ở trong pháp của ta hành Bồ Tát đạo. A Nan nói: hy hữu thay Thế Tôn! Lạc Thiện trưởng giả cúng dường pháp sư, do nhờ phước đức ấy sớm được vô thượng Bồ Ðề mà pháp sư nay mới hành Bồ Tát đạo. Phật bảo A Nan: Vi Tu La không thể phát tâm Bồ Ðề như ta; chỉ lấy cái vui của đạo mà cầu Bồ Ðề nên bỏ tu khổ hạnh. A Nan, ta ở trong đêm dài thường tu hành cần khổ để cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ta trong lúc tu hành đạo Bồ Tát có phát nguyện như thế này: nếu có chúng sanh nào theo nghiệp tạo ác đọa trong ba đường ác chịu các khổ não, lúc ta thành chánh giác sẽ độ thoát mọi khổ ách cho chúng sanh. A Nan, Vi Tu La đã tu tập hạnh nguyện sâu nói không thể hết, dùng toán số, thí dụ cũng không thể nào rõ hết được, là do phát tâm đại bố thí trong đạo vô thượng Bồ Ðề. Do thiện căn ấy mà phát nguyện rằng: nếu lúc ta tu tập đạo Bồ Ðề mà có chúng sanh nào chưa vào được pháp vị, người cầu quả Thanh Văn, Bích Chi Phật. Những chúng sanh này được thấy thân ta hoặc nghe tên ta thì nhất định chứng được đạo vô thượng Bồ Ðề.
A Nan bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn: Vi Tu La pháp sư nhận sự cúng dường của Lạc Thiện trưởng giả, nay đang ở trong đại chúng đây. Phật bảo A Nan: tỳ kheo Vi Tu La trong chúng đây hiện đang đứng trước ta đó.
32. Phẩm Ca Ngợi Gặp Gỡ Thứ Ba Mươi Hai
A Nan bạch Phật rằng, hy hữu thay Thế Tôn! Nay đây trong đại chúng mọi người đều thanh tịnh. Phật bảo: đúng thế, đúng thế, A Nan! Như ông đã nói: trong chúng đây đều là những người thanh tịnh gặp nhau. Họ là chúng đại Bồ Tát cả.
A Nan, đại chúng trong hội này là hội sư tử, không còn sợ hãi, là hội đại long, hội đặc biệt, hội không thể so sánh. A Nan bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn tại sao gọi là hội đại nhân, là hội sư tử? Này A Nan, vì trong các pháp đã phá hết vô minh làm lợi ích cho vô số chúng sanh, do phát đại nguyện nên gọi là hội đại nhân. Chư Bồ Tát phát nguyện trang nghiêm khéo thu nhiếp được Phật pháp nên gọi là hội sư tử. Lại nữa, A Nan như chúa sư tử trong hang sâu. Ở đó loài trùng thú không thể nào dám lại gần, vì không thể chịu được cái oai dũng của loài sư tử. Nếu có con nào lại gần chỉ nghe oai sư tử cũng đủ trốn mất dạng.
Này A Nan, đây là sự gặp nhau của chư Bồ Tát nên là hội đại nhân, hội đại sư tử, hội đặc biệt, hay còn gọi là hội không thể nào sánh được. Tùy theo chỗ ở hoặc ma, thiên ma làm cho người không dám lại gần, hay nếu có đến gần liền bị khốn đốn ngay, tâm sợ sệt, ẩn núp chẳng dám chườn ra, vì không thể chịu được đại oai đức của Bồ Tát. A Nan, như chúa sư tử hống lên ba lần, tiếng vang của nó lan xa trên một do tuần; trên và dưới mỗi nơi cũng đều nghe xa một do tuần. A Nan, tiếng sư tử chúa gầm làm cho những sư tử nhỏ khác đều phải khiếp sợ, huống gì loài chim muông. Voi chúa bạch tượng nghe tiếng gầm của sư tử cũng phải khiếp sợ không thể kềm chế được nên phát lên tiếng kêu thất thanh. Này A Nan, hội chư Bồ Tát là hội đại sư tử, hội không còn sợ hãi. Những người mới học mượn danh Bồ Tát như sư tử con nghe tiếng gầm lớn liền lẫn trốn. Này A Nan, trong đại chúng này, có những Bồ Tát bất thiện tham đắm, lợi dưỡng, mong được danh thơm lan rộng, nghe Ðại Bồ Tát nói pháp nhiệm mầu đều sợ sệt nên rơi vào hố sâu. Tại sao thế? Vì Ðại Bồ Tát nói pháp ‘không’, ‘vô tướng’, ‘vô tác’, những vị tiểu Bồ Tát chấp vào cái ‘NGÃ’, vào năm ấm, 12 nhập, 18 giới, cũng như chấp giữ giới, tu thiền định, trí huệ, chấp quả vị, cũng như Niết Bàn và Phật quả nên không thể kham nổi. A Nan, trong Phật pháp, sao gọi là không, vô tướng, vô tác? Tuy ta nói không mà kỳ thật trong đó không có pháp nào là không, cũng như không có chỗ nương tựa; KHÔNG là KHÔNG chứ không phải rỗng không. Này A Nan, ta nói vô tướng, trong đó không có pháp gọi là vô tướng, cũng không có chỗ để nương tựa; cũng không có pháp nào là vô tướng, cũng không là rỗng không. A Nan, ta nói vô tác trong đó không có một pháp nào gọi là vô tác cả, cũng như không có chỗ nương tựa, cũng không có pháp vô tác. A Nan, tuy Như Lai nói pháp có thể đoạn diệt mà kỳ thật trong đó không có pháp nào đoạn diệt cả, cũng không người đoạn, không có pháp đoạn, không có chỗ để đoạn. A Nan, tuy Như Lai nói có pháp có thể chứng mà trong đó kỳ thật không có pháp để chứng, không có người chứng, không dùng pháp để chứng, cũng không có chỗ chứng. A Nan, tuy Như Lai nói có pháp tu mà trong đó không có pháp nào được tu cả, cũng như không có người tu, không xử dụng pháp tu, cũng không có chỗ để tu. A Nan, tuy Như Lai nói pháp biến hoại mà trong đó không có pháp nào hoại cả, không người hoại, không dùng pháp để hoại, cũn g như không chỗ hoại. Tuy Như Lai nói pháp hữu vi mà trong đó không pháp nào là hữu vi cả, không có chỗ nương tựa, cũng không có chỗ dùng, đó là pháp hữu vi. A Nan, tuy Như Lai nói pháp vô vi mà trong đó không có pháp nào là vô vi, không chỗ nương tựa, cũng không có chỗ dùng, đó là pháp vô vi. A Nan, tuy Như Lai nói pháp bất tịnh mà trong đó không một pháp nào bất tịnh, không chỗ nương tựa, cũng không chỗ dùng, đó là pháp vô cấu vậy. A Nan, tuy Như Lai nói pháp tịnh mà trong đó không có pháp nào tịnh, không chỗ nương tựa, cũng không chỗ dùng, đó là pháp tịnh. A Nan, đó là tất cả pháp ấn (12) không hoại, không biến đổi, trong pháp ấn ấy không có tướng ấn. A Nan, nếu chư Bồ Tát đạt được pháp ấn gọi là người chân thật trong hàng sư tử, người độc hành, kẻ không sợ hãi. Ðem tiếng gầm sư tử mà dọa chúng ngoại đạo thì bọn họ tìm chỗ lẫn trốn hết, hàng phục bọn ma, những người tham chấp không thể sánh kịp, làm kinh đỡm kẻ tăng thượng mạn, làm kinh động người chấp ngã. Không tin có ma mà vui trong tinh thần người Phật tử, có thể vì chúng sanh trong mười phương mà khai tỏ Phật pháp, lập pháp tràng, gióng trống đại pháp, thổi ốc pháp làm các hàng Phật tử thấm nhuần pháp vị, phân biệt pháp thí hay diễn nói pháp cho người đủ căn lành. Này A Nan, như con sư tử chúa từ trong hang sâu đi ra gầm lên ba tiếng. Sư tử con nghe tiếng gầm ung dung thư thả không hề sợ sệt ngó dáo dác tứ bề. A Nan, đây là hội của các bậc đại trí sư tử, hội không sợ sệt, hội của những bậc đại trí. Vì các bậc chân Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Ðề, căn lành đã thuần thục, nếu nghe được những pháp như thế, như sư tử con nghe tiếng gầm của chín loài sư tử thì không còn khiếp sợ, lại còn làm cho tâm thêm hoan hỷ. A Nan, như sư tử chúa theo chỗ ở đi đứng một mình không sợ sệt. Như thế hội đại sư tử là hội không còn sợ hãi, trong Phật pháp họ phát tâm đại trang nghiêm, là bạn lành khó sánh. Cái trang nghiêm bậc nhất vô nhị, suy nghĩ thế này: ta phải đạt thành vô thượng Bồ Ðề nên không có ai nào hơn, chứng đắc Phật pháp. A Nan, như sư tử chúa có sư tử cái đang thời kỳ thọ thai, một lần không có hai.
A Nan, hội sư tử, hội không sợ hãi, hội đại Bồ Tát có chư Bồ Tát phát tâm Ðại Thừa, nghĩ rằng chẳng thọ thừa nào khác. A Nan, như sử tử chúa muốn làm hại các loài thú hoặc lớn hay nhỏ đều phải vận dụng sức lực cả. A Nan, hội sư tử, hội không sợ hãi, hội Ðại Bồ Tát có thuyết pháp đều do nhứt tâm làm cho mọi người được hiểu rõ. Vì thế, A Nan, đại hội này gọi là hội sư tử vậy.
33 – Phẩm thượng kiên đức thứ ba mươi ba
Lúc bấy giờ trong chúng hội có một vị tỳ kheo tên là Kiên Ý từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên mặt chắp tay cung kính bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn, con muốn phụng thờ kinh pháp, cũng như muốn cúng dường ba đời chư Phật và chư Bồ Tát đã học qua giáo pháp; cũng như muốn khuyến nhắc nhau làm tăng thêm căn lành. Do việc như trên nên nay được tôn phụng đức Thế Tôn, được lấy y trùm lên Như Lai, cũng như cầm y mà bạch Phật rằng: nay con đem chiếc y này dâng lên đức Thế Tôn, mong đời sau con sanh ra ở bất cứ nơi đâu đều được nghe pháp. Theo ý Phật con dâng hiến y này. Liền lúc đó Kiên Ý đến chỗ tỳ kheo Tinh Ðắc nói rằng: này Ngài thiện tri thức! Phật tán dương tôi nên tôi đem y này dâng cúng Như Lai, liền trao y cho Tinh Ðắc cầm, làm tăng thêm thiện căn của việc dâng y cúng Phật, trong lúc Như Lai hiện đại thần thông. Bấy giờ A Nan và bốn chúng (13) trong y đều thấy Như Lai hiện đủ lực thần thông biến hóa. A Nan bạch Phật rằng, hy hữu thay đức Thế Tôn! Như Lai biết rộng nên mới hỏi. A Nan, ông thấy nghĩa gì là hy hữu?
Lúc đó ngài A Nan muốn làm cho rõ việc trên nên dùng bài kệ bạch Phật rằng:
Với y này chúng con
thấy vô số Bồ Tát
Bồ Ðề tâm mãnh liệt.
Chẳng hành khen pháp Phật
cũng thấy chư Bồ Tát
đều từ y này phát
gần vô lượng trăm nghìn
a tăng kỳ loại y
gìn giữ các y xong
đem dâng mười phương Phật.
Ta thấy hiện đây kia
vô lượng thần thông lực
người dâng y cúng Phật
được Phật thọ ký cho.
Người ấy hành đạo theo
đều sẽ được làm Phật.
Tùy chỗ ở nơi đâu
làm cõi Phật tịnh thanh
và mỗi một chúng sanh
Phật quả được viên thành.
Lại thấy vô lượng ức
đủ các loại kỹ nhạc
tiếng pháp âm vừa phát
Từ không trung Phật nói
ta thấy ba nghìn cõi
chư Phật hiện đầy đủ
Thế Tôn, nay con nghĩ
tự cho chẳng Thanh Văn
lực thần thông hy hữu
làm choáng ngợp mắt con
dùng thánh trí vẹn tròn
xem ba cõi đều không.
Con nơi ‘không’ trí này
và ‘vô sanh trí’ thảy
trong các trí như thế
thường không mất chánh niệm
chỉ do nghiệp báo chuyển
trong đó có sai lầm
bốn chúng đều vui mừng
bay ở giữa không trung
đều ngồi trên đài sen
trên nghìn cánh sen xinh.
Lại cũng từ y kia
thấy mười phương thế giới
chư Phật thầy trong đời
đại chúng vây khắp nơi
Cũng thấy các thượng nhơn
bố thí khó nghĩ bàn
để cầu đạo Bồ Ðề
nên chưa hề xa Phật
Do nhờ nhân phước đức
chúng sanh được lợi lạc
Hay tự mình hóa hiện
thuyết pháp khắp mười phương.
Trong y ta thấy tường
việc ấy nói không cùng
Chư Bồ Tát khó lường
tâm hoan hỷ kính nhường
như Tự Tại Phạm Vương
thấu rõ lực thần thông
đa văn, biện luận tài
đều được đà la ni
chuyển xoay Phật huệ trí
khắp mười phương châu biến
Chư Bồ Tát cũng thấy
dạo chơi các thế giới
đều hóa thành vật quí
hương hoa để trang bị
Thấy Phật ngồi đạo tràng
chuyển pháp luân vô thượng
thần lực của Phật hiện
đều từ nơi y biến
dạo qua các thế giới
đủ thân hình biến hóa
thuyết pháp làm lợi chúng
khiến trụ đạo Bồ Ðề.
Thật là hy hữu thay
việc ấy khó thể tin
Thần lực Phật vô biên
cho chúng sanh thấy rõ
Phật làm ruộng phước báu
đệ nhất pháp nhận thí.
Kẻ thí đuợc quả quí
các khổ não trừ hủy.
Ta trong nghìn vạn kiếp
xưng tán cũng không hết.
Vì ai thị hiện tiếp
việc thần thông thiên biến.
Ai làm tịnh cõi Phật
tu tập đạo Bồ Tát.
Ai được thần lực này
mong Phật trừ nghi con
Hoa sen bảy báu tròn
cánh hình bánh xe lăn.
Bồ Tát ngồi ở trên
dạo đi khắp mười phương.
Quán Phật xong trở về
liền chứng đạo Bồ Ðề.
Thế giới tịnh nghiêm thế
hiện việc khó có thể
Con trong thế giới này
thấy có một Bồ Tát
khuyên người tu đạo giác
tay cầm y đạo đạt
việc này ngưỡng mong Phật
làm sao tu học được?
Ðây chắc xưa từng bố thí nhiều
thực hành tâm tùy hỷ rộng sâu
cùng chúng sanh tu pháp nhiệm mầu
đều an lạc như nay trông thấy.
Thế Tôn vì con nói việc này;
trừ sạch chúng sanh tâm nghi ngờ.
Tỳ kheo phát nguyện được như vầy
ấy là Tinh Ðắc vì Kiên Ý.
Phật bảo ngài A Nan đợi trong giây lát, Kiên Ý Bồ Tát có điều nghi vấn nên ta nhân đây mà đáp. Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: bạch đức Thế Tôn, con có điểm nghi muốn hỏi, nếu Phật chấp thuận con mới dám thưa. Phật bảo Kiên Ý: ông cứ việc hỏi, ta sẽ tùy nghi đáp cho ông được hài lòng. Lúc đó Kiên Ý thưa: bạch Thế Tôn, có pháp môn để nhập. Như thế pháp là gì? Môn là thế nào? Nhập là nghĩa làm sao? Ngưỡng mong đức Thế Tôn phân biệt đây là pháp, kia là môn, nên nhập như thế nào mới là nhập? Lúc đó Kiên Ý dùng bài kệ hỏi rằng:
Sao gọi là thượng pháp
cái gì gọi pháp môn ?
Làm sao vào cửa này
mong Phật giải đáp cho.
Làm sao vào cửa này
được đắc quả Bồ Ðề?
Làm sao lúc thuyết pháp
biện luận đều thông suốt
từ đâu đến gọi pháp?
Ðến đây trụ chỗ nào?
Trong các pháp làm sao
mà nghĩ đúng không sai?
Thế nào là sắp nhập?
và sao gọi đã vào?
Thuyết pháp phải làm sao
ở trước pháp hiện ra?
Lúc nói đủ pháp cả
làm sao tâm không loạn?
trong vô lượng muôn kiếp
biện tài không gián đoạn?
Chư Bồ Tát thành tựu
làm sao có chí cầu?
Nói pháp không bến bờ
mà tâm không thượng mạn?
Bồ Tát đây đời trước
thí, hồi hướng thế nào?
Ðời đời lúc thuyết pháp
biện tài không gián đoạn?
Và giữ giới thế nào
giới thanh tịnh làm sao?
Sao lấy giới hồi hướng
mà tâm không liệt nhược?
Làm sao tu nhẫn nhục
và tập nhẫn thế nào?
Do nhân đó cho đến
vô tận không bến bờ.
Làm sao khởi tinh tấn
tu pháp ấy thế nào?
đời đời được sanh ra
đạo Bồ Ðề không xa.
Làm sao tu thiền định
thế nào tập an tĩnh?
Trong định quán pháp gì
để được biện luận tài?
Cầu trí huệ thế nào
gần gũi tu tập đạo?
Huệ ấy ở tại đâu
mà không đoạn mất được?
Trụ pháp thiện vô thượng
thuyết các pháp thật tướng
trí tuệ Phật suy lường
không, vắng lặng vi diệu
đọc tụng đủ các kinh
hiểu rõ được nghĩa thú.
Song không muốn diễn nói
để lìa trí huệ thật.
Nghĩa này con hỏi Phật
trừ hết thảy chúng nghi
đời vị lai trở đi
cầu có các pháp sư
làm sao được thân cận?
Phải hỏi pháp thế nào?
tu tập phải làm sao?
Ủng hộ pháp cách nào?
Mong Phật dùng thần lực
vì con nói nghĩa thực
khiến cho đời vị lai
dứt trừ các lưới nghi.
Lúc đó Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát rằng: lành thay! lành thay! ông khéo hỏi Như Lai nghĩa sâu mầu ấy. Trong đời quá khứ ông đã ở nơi vô lượng các đức Phật gieo trồng phước đức, cúng dường, lễ bái, thọ sự hỏi đáp.
Này Kiên Ý, ta nhớ ông lúc xưa trong hư không của thế giới này đã từng theo hỏi sáu vạn tám nghìn đức Phật cũng nghĩa như thế. Lúc chư Phật trả lời những câu hỏi có vô số chúng sanh được nhiều lợi ích. Vì thế, nên biết ông trong quá khứ đã sâu trồng căn lành nơi các đức Như Lai rồi. Này Kiên Ý, lui về thời quá khứ vô lượng vô số a tăng kỳ kiếp có đức Phật ra đời hiệu là Xuất Bảo Quang Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn sống lâu nửa kiếp. Phật có bảy mươi ức chúng A La Hán tâm được lậu tận tự tại. Phật Xuất Bảo Quang cùng đại chúng dạo qua các quốc độ để cùng an cư. Lúc đó cõi Diêm Phù Ðề đất đai rộng rãi ngang rộng bảy vạn do tuần. Lúc đó ở đời có người sát lợi Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thượng Kiên Ðức, cai trị bốn châu thiên hạ. Này Kiên Ý, lúc đó cõi Diêm Phù Ðề có tám mươi ức thành, các thành đều rộng lớn: chiều dài 40 do tuần, rộng 30 do tuần. Nhân dân ở đó được thái bình hưng thịnh. Trong cõi Diêm Phù Ðề có một thành lớn chiều ngang rộng đúng 80 do tuần, đường đi ngay thẳng chạy dọc theo tương đương. Mỗi đường rộng năm dặm, bên trong có một thành nhỏ gọi là An Ổn. Vua Thượng Kiên Ðức ở trong thành ấy. Này Kiên Ý, bên thành lớn có bảy vạn vườn rừng không thuộc về của ai cả. Chúng sanh ở đó có thể tha hồ vui chơi trong thành đó. Trong số có một vườn lớn ngang rộng 80 do tuần, chỗ vua dạo chơi có cây báu bảy lớp bao quanh vườn, cũng như có bảy lớp lưới giăng che phủ bên trên. Có bảy tầng lâu đài cũng bằng bảy báu, bảy lớp tường vây kín, bảy lớp hào bao bọc quanh vườn. Lúc đó Phật Xuất Bảo Quang cùng với bảy mươi ức A La Hán cung kính vây quanh, dạo khắp chư quốc đến thành An Ổn. Vua Thượng Kiên Ðức nghe Phật cùng đại chúng dạo khắp các nước đến thành này, tâm rất lấy làm hoan hỷ đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Lúc đó Phật quán xét tâm nhà vua có túc duyên đời trước, bèn nói pháp trừ nghi chúng sanh làm cho chúng hoan hỷ nơi kinh tạng Ðại Thừa. Vua Thượng Kiên Ðức nghe pháp tâm rất hoan hỷ liền nghĩ rằng, nay ta nên đem những đồ tốt đẹp trang hoàng khu vườn này dâng cúng Như Lai làm sao cho Ngài thọ nhận. Tức khắc trong vườn hiện lên 70 ức chư tăng, phòng xá, y đẹp che phủ mặt đất. Có 70 ức chỗ đi kinh hành, giường gối, tọa cụ cũng có 70 ức. Vua sẵn sàng đi đến nơi đức Phật đầu mặt lạy dưới chân Phật rồi bạch rằng: cúi mong đức Thế Tôn thương xót con, và đại chúng mà nhận lời mời đến nhà ngày mai. Phật Xuất Bảo Quang yên lặng nhận lời. Vua biết Phật đã nhận lời nên đảnh lễ dưới chân rồi đi vòng quanh phía bên hữu. Trong đêm đó, vua lo liệu đầy đủ mọi thứ đồ ăn trân quí của bậc chuyển luân thánh vương đem cúng Phật và chúng tăng.Vào sáng sớm hôm sau vua đến bạch Phật rằng: cơm nước đã xong ngưỡng mong Phật biết thời. Phật Xuất Bảo Quang đắp y mang bát cùng bảy mươi ức vị đại A La Hán cung kính cùng đi đến vườn ấy ngồi theo thứ tự. Vua Thượng Kiên Ðức thấy Phật và chúng tăng đã ngồi yên ổn rồi, tự tay ông mang thức ăn đủ vị sớt cho từng vị làm cho ai nấy đều được no nê. Biết Phật và chư tăng dùng cơm và rửa tay, rửa bát xong, Vua đem dâng Phật và chư tăng mỗi vị một chiếc y. Cúng y xong chính nhà vua cầm chén vàng múc nước rửa tay Phật, rồi bạch rằng: con đem vườn này, và các phòng xá, chỗ kinh hành, giường gối, ngọa cụ sắp đặt sẵn sàng trong vườn để cúng Phật và chúng tăng, cúi mong Ngài thọ dụng, cũng như đích thân vua hầu hạ Phật. Phật bảo Kiên Ý rằng, vua Thượng Kiên Ðức cúng dường Phật Xuất Bảo Quang, đêm ngày tùy thời thường đến nghe pháp như thế cho đến nửa kiếp để hỏi Phật các Pháp về Nhân Quả liên tục. Phật tùy thời hỏi mà đáp làm lợi ích cho vô số chúng sanh. Này Kiên Ý, ông cho rằng vua Chuyển Luân Thượng Kiên Ðức thuở đó đâu phải người nào lạ chăng? Ông chớ nghĩ như thế mà chính là ông đấy! Này Kiên Ý, ta nghĩ ông trước đây thuộc đời quá khứ đã hỏi pháp như thế, đem đồ trân quí cúng dường hằng ngàn đức Phật. Nay Như Lai cũng vì ông mà nói pháp môn này, là pháp nhập pháp tướng vậy.
Chú thích:
(1) Ðồng tử: đứa bé có khí phách của bậc hiền nhân, căn tánh thông tuệ mẫn lợi
(2) Ðấng Pháp Vương: bậc vua các pháp, chỉ cho đức Phật. Vì Phật mới biết rõ vạn pháp trong vũ trụ và tìm ra chân lý giải thoát cho chúng sanh.
(3) Pháp thí: ban bố giáo pháp đến tất cả những nơi cần
(4) Nhiễm y: áo bẩn, áo thế tục bị nhiễm bụi trần lao phiền não
(5) Hoà Thượng: Tàu dịch là Lực Sanh hay Thân giáo sư. Lực Sanh là có đạo lực làm cho dệ tử phát sanh trí huệ; thân giáo sư là bậc thầy thân cận đệ tử. Vị Tăng sĩ từ 40 tuổi hạ trở lên và tuổi đời trên 60 tuổi mới được gọi Hòa Thượng.
(6) Xà Lê hay A Xà Lê, Tàu dịch nghĩa là Giáo Thọ, tức Thầy dạy đạo. Trong đạo tràng truyền giới có ba vị trưởng lão hòa thượng chứng minh: trong đó có một thầy giáo thọ để hỏi về giới luật, kiến thức Phật pháp của những người thọ giới.
(7) Pháp yết ma: phép hỏi đáp của các vị tỳ kheo trong giới đàn hay những ngày bố tát, được đại chúng tỳ kheo đồng lòng hoan hỷ chấp thuận, phép tác bạch mới thành tựu đúng pháp.
(8) Giới hoàn bị: đầy đủ giới tướng (250) của thầy Tỳ kheo và cũng đủ khả năng cung cách để làm việc đạo.
(9) Thiện lai: lời nghinh đón những vị tỳ kheo danh đức từ xa đến viếng thăm tự viện, đàm đạo Phật sự với một vị trưởng lão khác. Ngay như đức Phật cũng dùng từ ấy xưng tán tỳ kheo thiện đức.
(10) A Tỳ Ðàm: còn gọi là A Tỳ Ðạt Ma (Abhidharma) là một trong ba tạng thánh điển: kinh , luật, luận của Phật giáo. A Tỳ Ðàm chỉ về phần luận tạng bao hàm nghĩa mầu thâm diệu trong giáo pháp của Phật.
(11) Ba môn: nói đủ là ba môn học là giới, định, huệ hay còn gọi là văn, tư, tu; giữ giới, tu thiền, phát sanh trí huệ hoặc nghe hiểu, suy xét, thực hành phát sanh trí huệ.
(12) Pháp ấn: trong Phật pháp là dấu hiệu của một ý định như đã hằn sâu trong tâm thức mà nhà tu hành quyết đạt tới quả Phật. Ðó còn là cách bắt ấn của các vị tăng phái chân ngôn, mật giáo Tây Tạng thường thực hành để truyền đạt đạo lý với nhau giữa thầy trò. Là sự ấn chứng huyền diệu của Phật cho các đệ tử có căn cơ thâm nhập diệu lý của những lời Phật dạy; là sự trao truyền tâm pháp giữa Phật với Phật, Tổ với Tổ để ấn định việc duy trì giáo pháp.
(13) Bốn chúng: bốn chúng đệ tử của Phật. Xuất gia có hai chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni và tại gia có hai chúng: ưu bà tắc hay cận sự nam và ưu bà di hay cận sự nữ, tức là những người Phật tử đã phát nguyện quy y tam bảo và thọ giữ 5 giới.
(14) Thượng nhơn: người đạo cao đức trọng được người đời kính phục tôn xưng.
***
34. Phẩm Pháp Môn Thứ Ba Mươi Bốn
Phật bảo Kiên Ý rằng: đã gọi là pháp thì không suy, không nghĩ, vô tướng, vô tác, không nhớ, không tưởng, thanh tịnh không duyên, không văn tự, cũng không bằng lời, không thể chỉ bày ra được.
Này Kiên Ý, các pháp không gặp các căn không thể dùng trí biết được, cũng không thể dùng vô trí biết được. Không thể biết, cũng như không thể không biết. Này Kiên Ý, pháp do các duyên hợp thành, Như Lai biết mà biết không phải bằng lời nói. Như Lai đem pháp bất khả thuyết ấy nói về các pháp; có thuyết đạo tức là có pháp môn rồi. Tại sao? Ðem chư hành (1) ấn chứng vào tất cả các pháp thành một vị. Này Kiên Ý, các pháp vô cùng tận không bờ mé. Này Kiên Ý, các pháp hoàn toàn không tăng, không giảm cho đến vô tận. Do nghĩa này nên Như Lai dùng ngôn ngữ, văn tự phân biệt giải rõ. Kiên Ý, vành chữ 31 (A) sau mới tới các chữ khác theo thứ tự liên tục. Vì thế nói từ chữ A biến ra những chữ khác. Từ các chữ hợp thành các câu, những câu kết hợp lại với nhau thành ý nghĩa. Vì thế Như Lai nói chữ 31 bao hàm tất cả các pháp. Này Kiên Ý, pháp môn này những gì là pháp? Kiên Ý, sở dĩ gọi pháp, vì bản lai của nó vô tác, không thể nói bàn, không chỉ ra được. Vì vô tri nên biết mà không thể nói ra được, không nói ra được nên không thể chỉ bày ra được. Chữ 31 (A) như thế có thể làm ra tất cả ngôn ngữ gọi là pháp môn. Nếu thiện nam, tín nữ nhập pháp môn này là được trí huệ vô tận, và biện tài vô ngại. Pháp môn vô tận ấy ở quá khứ vô cùng, trong cái vô cùng tận ấy không có tướng, không thể nói ra được. Có những cái biết đều là vô tri, có những cái thấy đều không thể thấy, có những sự phân biệt đều không phân biệt cho nên gọi là vô tận. Này Kiên Ý, đấy gọi là môn. Môn là gì? Ấy là các pháp môn vậy. Những gì là pháp Phật không đạt được? Hơn thế nữa, môn này quán xét các pháp tới chỗ không còn suy lường nữa. Tại sao thế? Vì tất cả ngôn ngữ đều chẳng phải ngôn ngữ. Mọi việc nói bàn đều không cùng tận. Mọi lời nói đều NHƯmà chẳng lìa NHƯ. Mọi hiểu biết đều chẳng có thể biết. Này Kiên Ý, đó là câu Kim Cang (2) vậy. Tại sao gọi là câu kim cang? Như pháp vô tác thì không thể hoại diệt được. Vì không hoại diệt nên gọi là câu kim cang. Các pháp không nghiệp, vì không nghiệp nên không có báo. Vì thế Như Lai nói tất cả pháp không nghiệp, không báo như thế gọi là pháp ấn. Như Lai nói nghiệp, quả báo đều là ấn cả. Ấn thì không thể hủy diệt được. Này Kiên Ý, nếu thiện nam, tín nữ nào muốn biết nghiệp báo thì vào môn này. Kiên Ý, tất cả các pháp không đến, không đi là nhập pháp môn. Nhân môn này ta vì chúng sanh nói có sanh tử khác nhau. Kiên Ý, nếu thiện nam, tín nữ muốn hiểu sanh tử của chúng sanh thì dùng ấn này mà vào, gọi là pháp ấn, ấn vô văn tự, ấn vô chướng ngại. Này Kiên Ý, Như Lai có nói bàn cũng đều từ ấn ấy. Tất cả những gì có thân đều là thân Như Lai. Tại sao? Vì tánh của các thân ấy không chống trái nhau. Phật dùng ấn này nói về thân tướng chúng sanh, gọi là thân ấn; cũng dùng ấn này để chỉ rõ tất cả thân tướng. Tại sao? Này Kiên Ý, vì các pháp vô môn nên không thể nhập. Vì không nhập nên cũng không thể xuất. Các pháp không xuất nên cũng không nhập. Vì thế Như Lai, nếu có thuyết đều không lìa cái vô ngại ấy mà thuyết. Dùng cái bên ngoài vô ngại mà nói các pháp, cũng như do cái bên ngoài này biết được chúng sanh để tùy nghi mà thuyết pháp. Này Kiên Ý, cái bên ngoài vô ngại ấy là cái không có ngằn mé. Không ngằn mé là tánh của tất cả chúng sanh, gọi là cửa ngoài biên.
Vào cửa ngoài biên có thể mở được nghìn ức pháp tạng(3) . Pháp tạng này cũng chẳng phải chỗ chứa giữ. Kiên Ý, Như Lai ở trong các pháp tạng mà nói pháp nên gọi là ngoài biên. Lại có các sắc tạng, thọ, tưởng, hành, thức tạng nữa. Tạng đây chẳng phải chỗ chứa giữ, cũng không phải tạng tự tại mà đó là các chỗ chứa lấy chữ 31 (A) làm lối vào. Lúc bấy giờ Kiên Ý bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn, cửa này thật là sâu thẳm! Phật bảo: này Kiên Ý! Ta không nghĩ sâu hoặc cạn. Bạch Thế Tôn: Phật có thuyết pháp chăng? Này Kiên Ý, không như phàm phu tham chấp có thuyết mà tùy kẻ trí giải bày, không nói ra. Tại sao? Vì không thể thuyết cái tướng các pháp được, chỉ có người trí biết rõ thôi. Nếu người phàm phu có biết thì chấp vào văn tự, nên Phật nói văn tự, ngôn ngữ chẳng phải là ngôn ngữ. Phật lại bảo Kiên Ý rằng: tất cả các pháp tịnh như ánh sáng mặt trời, tùy nơi chiếu soi mà vào tận những nơi không biên giới. Này Kiên Ý, tất cả các pháp đều có thể chiếu sáng, có thể soi tỏ trí huệ vậy. Kiên Ý, tất cả các pháp không bị chướng ngại, như hư không. Kiên Ý, tất cả các pháp không bị chướng ngại, như hư không. Kiên Ý, theo kiến chấp hai pháp nên Như Lai dùng mắt vô ngại để quán xét. Kiên Ý, ấy là pháp nhãn vậy.
Phật dùng pháp nhãn này mà thấy tất cả các pháp không còn có tướng chướng ngại. Này Kiên Ý, đó gọi là các pháp không chướng ngại môn. Nếu có thiện nam, tín nữ nào muốn vào cửa này thì những lời nói đều có lợi ích, không bị chướng ngại, đều làm cho rõ nghĩa thú, nói lên được nghĩa sâu không còn tham chấp. Lại này Kiên Ý, các pháp không dơ, không nhiễm, không lìa. Kiên Ý, pháp không có chỗ nương tựa nên không thể nhận. Kiên Ý, pháp vô cùng tận không có gốc ngọn. Này Kiên Ý, có nói ra bằng văn tự hay ngôn ngữ thì nên biết rằng không có văn tự, cũng như không có ngôn ngữ. Kiên Ý, làm sao vào cửa văn tự ấy? Chỉ nói pháp không chướng ngại là vào rồi. Kiên Ý, vào như thế là chẳng vào, là nhập được pháp tánh. Kiên Ý, Như Lai nói các môn tam muội là thế nào? Này Kiên Ý, có một tướng tam muội và các tướng tam muội. Một tướng tam muội là có vị Bồ Tát nghe ở một thế giới nào có Phật đang thuyết pháp, Bồ Tát đem hình vị Phật ấy để phía trước, hoặc ngồi đạo tràng chứng vô thượng Bồ Ðề, hoặc chuyển pháp luân, hoặc cùng đại chúng bao quanh mà thuyết pháp. Dùng hình Phật như thế giữ cho tâm không loạn niệm để nhiếp phục các căn, nhất tâm niệm Phật không rời; cũng nghĩ tới tướng thế giới của Phật mà vị Bồ Tát ấy đối với hình Như Lai, cũng như hình của thế giới ấy đều hiểu là không tướng. Thường thực hành pháp như thế, quán xét như thế chẳng rời. Tượng Phật lúc đó ở ngay trước Bồ Tát mà thuyết pháp. Lúc bấy giờ Bồ Tát khởi niệm cung kính muốn nghe pháp, tùy theo sự tin hiểu sân cạn, lại càng thêm tôn sùng kính ngưỡng Như Lai hơn.
Bồ Tát ở nơi tam muội ấy nghe Phật thuyết các pháp đều là tướng tan hoại. Nghe xong liền thọ trì, Bồ Tát từ tam muội đứng dậy, vì bốn chúng mà diễn nói pháp ấy. Này Kiên Ý, ấy gọi là nhập một tướng tam muội vậy. Lại này Kiên Ý, Bồ Tát trụ trong tam muội ấy có thể tiêu hủy hình Phật kia, cũng như tự làm hoại luôn chính mình. Dùng tướng hoại diệt ấy hủy luôn các pháp. Vì hủy các pháp nên nhập vào một tướng tam muội. Từ tướng tam muội đứng dậy có thể vì bốn chúng mà thuyết rõ pháp ấy. Kiên Ý, ấy là phương tiện vào một tướng tam muội. Lại nữa Kiên Ý, Bồ Tát nhờ Phật tượng mà nghĩ thế này: tượng đây từ đâu đến? Ta đem tượng đi đâu? Liền biết tượng Phật không từ đâu đến, cũng không thể đem đi đâu cả. Lúc đó Bồ Tát nghĩ rằng: tất cả các pháp cũng đều như thế: không từ đâu đến, cũng không đi đâu. Bồ Tát thực hành và suy nghĩ như thế chẳng bao lâu chứng được pháp nhẫn vô ngại. Khi được pháp nhẫn rồi nghĩ tới sở tri của chư Phật, tới các pháp nhiệm mầu đều hiện ra ở trước. Dùng pháp nhiệm mầu ấy được biện tài vô ngại, nên tuy giảng pháp mà chẳng thấy pháp. Này Kiên Ý, trong đời quá khứ Như Lai có trí tuệ vô ngại, cũng như trong các thân tướng, trí huệ ấy không chướng ngại. Cũng trong quá khứ
Như Lai không tạo các mối buộc, cũng như biết rõ nên chẳng duyên theo niệm nhớ tưởng. Kiên Ý, Bồ Tát cũng như thế, trụ trong tam muội, tuy thuyết pháp mà không thấy có pháp để thuyết. Bồ Tát trụ trong tam muội ấy chuyên tâm tu tập, tùy theo nhân duyên được nghe tới vị Phật thứ hai đem hình để ở trước, hoặc ngồi đạo tràng mà chứng vô thượng Bồ Ðề hay chuyển pháp luân, hoặc giữa đại chúng vây chung quanh để thuyết pháp. Bồ Tát cũng thọ trị Phật pháp lần thứ hai mà vẫn không bỏ tượng Phật gốc; cũng như thấy Phật mà Bồ Tát đủ duyên với đức Phật thứ hai, đem hình để ở trước để nghe thuyết pháp. Kiên Ý, ấy cũng gọi là nhập một tướng tam muội. Lại nữa Kiên Ý, Bồ Tát dùng hình Phật để tu tập nên được tự do muốn thấy chư Phật đều có thể thấy hiện ra ở trước. Kiên Ý, cũng như tâm tỳ kheo được tự tại quán xét mọi sắc tướng màu xanh hiểu là cả thế giới đều một tướng màu xanh. Người kia chỉ nghĩ đến một màu xanh duy nhất, xét các pháp trong ngoài đều là một màu xanh. Vì trong cái duyên ấy được lực tự do tự tại vậy. Kiên Ý, Bồ Tát cũng như thế, tùy chỗ nghe danh chư Phật ở thế giới nào liền đem hình Phật và thế giới ấy để hiện ra ở trước. Bồ Tát khéo tu tập nghĩ tưởng tới Phật, quán các thế giới toàn là Phật. Nhờ lực khéo quan sát như thế mà hiểu rõ được các duyên đều là một duyên, là Phật duyên trong hiện tại. Như thế gọi là được một tướng tam muội.Kiến Ý bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn: dùng phương tiện gì được tam muội ấy?
Phật bảo Kiên Ý: đối với duyên niệm Phật, thành khẩn niệm không loạn, không lìa duyên, ấy gọi là tam muội môn. Kiên Ý, lấy một duyên ấy mà hiểu rõ các pháp, thấy mọi pháp tướng đều như nhau, ấy là một tướng tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội ấy, cũng như nhập pháp môn này mà cho rằng tất cả lời nói đều là lời của đức Phật. Tất cả thân tướng đều là thân Như Lai, luôn luôn không xa lìa. Lại này Kiên Ý, Bồ Tát nghe danh chư Phật hoặc hai, ba, bốn, năm hay mười, hoặc 20, 30, 40, 50 hoặc trăm nghìn vạn hay hơn số đó, một lúc chuyên niệm hết, cũng như các thế giới, số chúng đệ tử đều hiện ra ở trước với lòng tôn kính. Cũng nghĩ tới Phật đầy đủ thân hình kỳ diệu tướng tốt hiện ra ở trước với lòng cung kính tôn trọng; cũng như lấy mỗi một trong 32 tướng đại nhân và các tướng hạnh không dối, tướng sư tử hùng mãnh, vô kiến đảnh tướng, tướng quán tượng vương, tướng thủ đại quang. Dùng sự hiểu biết quán xét vô số tướng như thế, cũng như lấy tướng Phật, tướng thế giới, đem sự hiểu biết quán xét vô lượng các tướng thanh tịnh ấy; cũng lấy chúng đệ tử của Phật đem sự hiểu biết quán xét vô lượng các tướng ấy. Lúc đó Bồ Tát nghĩ rằng chư Phật có nhiều như thế từ đâu lại, ta phải đem đi đâu; liền biết chư Phật và xét chính thân mình không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Quán xét như thế là biết tin hiểu như vậy. Lúc đó Bồ Tát nghĩ thế này: trong các việc đó không một pháp nào cố định nên gọi là Như Lai. Lúc quán sát như thế biết tất cả pháp đều không, không chủ tể một tướng hay không tướng. Dùng cửa vô tướng này vào tất cả mọi pháp. Hiểu rõ như thế là thông suốt tất cả các pháp chỉ có một tướng. Này Kiên Ý, Bồ Tát chuyên niệm Phật duyên vào một chỗ, ấy gọi là các tướng tam muội môn. Kiên Ý, nếu Bồ Tát nhập tam muội này thông suốt các pháp đều một tướng vô tướng, ấy gọi là các tướng tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội ấy chỗ thấy, biết không phải là Như Lai; cũng như chẳng thấy, chẳng biết gì Như Lai cả. Chỗ thấy, chỗ biết không phải là pháp, cũng không thấy được pháp. Có sở tri kiến là đệ tử của Phật mà chẳng thấy, chẳng biết được chúng đệ tử Phật. . Chỗ thấy, chỗ biết ấy không phải thuyết pháp; cũng như chẳng thấy, chẳng thuyết pháp là gì. Có chỗ tri kiến thì không phải là duyên, cũng chẳng thấy duyên. Chỗ tri kiến không phải là biện, cũng chẳng thấy biện. Những cái ‘bị thấy’ thì chẳng phải là cõi Phật, cũng chẳng thấy được cõi Phật. Những cái bị trông thấy không phải thế giới, cũng chẳng thấy được thế giới. Những cái bị trông thấy không phải chúng hội, cũng chẳng thấy được chúng hội. Không một pháp nào chẳng thuyết mà không bị thuyết. Không pháp nào chẳng hiện, cũng không thấy chỗ hiện. Hiểu rõ như thế cũng như không hiểu; phân biệt rõ cũng như không phân biệt. Không pháp nào chẳng hoại, cũng như không bị hoại. Không pháp nào chẳng xuất, cũng như không bị xuất hiện. Không pháp nào chẳng soi sáng, cũng như không bị soi sáng. Này Kiên Ý, đó là cửa tam muội của chư Bồ Tát. Người nào vào cửa này trong các pháp được trí vô ngại. Quán sát như thế là vô ngại nhãn, trong đó không tham chấp gọi là pháp nhãn. Kiên Ý, Bồ Tát dùng tam muội ấy nên biện tài vô ngại.
Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật, bạch đức Thế Tôn: có bao nhiêu vị Bồ Tát đời sau đạt được tam muội này để được biện tài vô lượng vô biên? Ðời sau Bồ Tát đạt được tam muội có thể được biện tài vô ngại những gì? Kiên Ý, nếu Bồ Tát đời sau ở trong chúng tỳ kheo được nghe tam muội ấy thì nên biết rằng các vị đã đạt được tam muội rồi, nên được biện tài vô ngại. Nếu người nào thường tu tập tam muội được đắc thành môn tam muội này, cũng như được biện tài vô ngại. Kiên Ý, cửa này có thể mở để chứa tám trăm pháp, như trong hiện tại ở cõi Phật A Súc chư Bồ Tát thường dùng cửa này. Kiên Ý, trong một cửa thu nhiếp tất cả các pháp môn của tam muội môn, gọi là trùng cú môn (4) . Vì thế, Kiên Ý, người nào theo như pháp muốn nhập tam muội môn, trùng cú môn nên thân cận hỏi các bậc thiện tri thức, các thực hành thế nào? Quán sát ra sao? Tu tập thế nào? Nên theo chỗ chỉ dạy đúng pháp mà tu hành. Kiên Ý, nếu có đủ bốn pháp biết đó là bậc thiện tri thức. Những gì là bốn?
1) Khiến cho người khác vào các thiện pháp
2) Che dấu tất cả các pháp bất thiện
3) Làm cho người trụ trong chánh pháp
4) Thường tùy thuận giáo hóa chúng sanh.
Người nào đủ bốn pháp như thế là bậc thiện tri thức vậy.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Nên gần thiện tri thức
hay che các việc ác
ưa nói điều Phật khen
người ấy nên thân cận.
Tùy Phật đạo giáo hóa
sanh pháp thiện cho người
an trụ trong chỗ nghe
được tăng thêm trí huệ.
Pháp gần cần nên gần
pháp xa phải nên lìa
Các pháp ác lánh xa
tu điểm Phật ngợi ca.
Nếu muốn được biện tài
và đầy đủ trí huệ
nên sớm tu thiền định.
Thường theo thiện tri thức
như chỗ dạy tu hành
đúng pháp không tin thần.
Tự hiểu được pháp lành
cũng nên vì người thuyết
thâm tâm hành thiện pháp
Xa lìa lời nịnh hót
thường gần thiện tri thức
tu hành theo đúng pháp
Gần được thiện tri thức
phải xa lìa kẻ ác.
Ða văn mới có được
tam muội mới chứng nên.
Lại này Kiên Ý, nếu có được bốn pháp thì biết là người thiện tri thức. Những gì là bốn?
1) Khéo biết dạy dỗ
2) Khéo tu tập đạo
3) Biết chỉ giáo điều sai lầm
4) Biết sửa đường sai quấy
Này Kiên Ý, có được bốn pháp ấy nên biết đó là bậc thiện tri thức vậy.
Lúc đó đức Thế Tôn bèn nói bài kệ rằng:
Biết dạy dỗ tu đạo
Biết lỗi lầm sai trái
Biết rõ được như thế
trụ trong pháp vô ngại.
Này Kiên Ý, lại cũng có bốn pháp nên biết là người thiện tri thức. Những gì là bốn? Biết đất, biết người, biết nói, biết làm. Thế nào là biết đất? Theo người mà biết đất. Thế nào là biết người? Theo chỗ thực hành mà biết người trong đất đa dục, đa sân, đa si, hay trong đất định dục, định sân, định si. Người thì ở đất định dục, định sân, định si, kẻ thì trụ trong đất định dục sân, định dục sân si, người kia ở trong đất dục, sân, si. Nếu chúng sanh ở trong ba địa bất thiện ấy ta đều có thể biết được. Ðã biết nên theo chỗ trụ địa ấy mà thích hợp giáo hóa, tùy theo các dục lạc của Bồ Tát đều biết hết. Này Kiên Ý, nếu người nào thành tựu được bốn pháp trên, nên biết đó là bậc thiện tri thức. Này Kiên Ý, lại có bốn pháp nên biết được tướng người thiện tri thức. Những gì là bốn?
1) Khéo giữ gìn lời nói
2) Làm cho người trụ trong pháp nhiệm mầu
3) Thường tùy thời giáo hóa
4) Tùy lúc nghỉ ngơi
Lúc đó đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:
Biết tùy người thực hành
các địa sai biệt hẳn.
Biết tùy người dạy bảo
nên chúng thành tựu cả
Thuyết pháp điều phục là
khiến trụ pháp nhiệm mầu.
Tùy thời quở trách đa
cũng tùy thời nghỉ ngơi.
Tâm lành nói ra lời
không nhận việc phi thời
Người trí như thế đó
tùy nên theo hoặc bỏ
Này Kiên Ý, lại có bốn pháp nên biết tướng người thiện tri thức, thì có thể làm cho người khác tu pháp tam muội. Những gì là bốn?
1) Làm cho chúng đệ tử xuất gia thực hành hạnh xa lìa
2) Khiến cho người nhập vào quán pháp mầu nhiệm
3) Làm cho an trụ trong thiền định, trong mọi duyên mà không bị ngăn ngại
4) Xa lìa các tướng.
Này Kiên Ý, có bốn pháp ấy nên biết được là bậc thiện tri thức. Phật nói bài kệ:
Như người khen xuất gia
và ở chỗ vắng xa
Khiến đệ tử chiến thắng
ấy thiện tri thức đa
khiến trụ nghĩa đệ nhứt(5)
ở trong vi diệu pháp
trụ thiền định vô tướng
chính danh thiện tri thức.
Lại nữa này Kiên Ý, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp thì có thể tu tập tam muội. Những gì là bốn?
1) Xa lìa tự tâm
2) Thuận theo ý thầy
3) Lìa bỏ các duyên (mối buộc)
4) Tu pháp tam muội thường chuyên cần tinh tấn, quyết định không lui sụt.
Muốn đạt được tam muội ấy phải ưa ở nơi thanh tịnh, xa lánh những nơi ồn náo. Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp ấy có thể tu môn tam muội này.
Kiên Ý, Bồ Tát còn có bốn pháp làm cho sớm đạt được tam muội. Những gì là bốn?
1) Khéo giữ hình ảnh Phật cho đến trong giấc mộng cũng thấy chư Phật.
2) Khéo giữ hình ảnh thuyết pháp cho đến trong giấc mộng cũng thấy được nghe pháp.
3) Vì chúng sanh nói pháp không biết mỏi mệt, được các pháp nhẫn sâu xa để biết mọi pháp đều hoại diệt.
4) Thực hành định không nương tựa, tùy định để lìa tâm.
Kiên Ý, Bồ Tát có bốn pháp chóng đạt được tam muội như thế. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
Người ấy chẳng rời
hình tướng Thế Tôn.
Thường ôm hình Phật
chẳng rời trước mặt.
Luôn được thấy Phật
băm hai tướng tốt.
Nghe Phật thuyết pháp
giữ tướng thật ấy
chắc chắn bền xa
trong pháp nhẫn hòa
nương nơi thiền định
tâm ưa lìa xa
Chẳng diệt pháp ấy
hoại liệt pháp thảy.
Các pháp chẳng pháp
người ấy ưa thích
các tướng quán sát
không điểm phân biệt.
Tin hiểu pháp thật
đều là thân Phật
ngôn từ chẳng chấp
không theo lời người
Tự biết tướng đây
do người nói ra.
Tu nhẫn nhục hòa
chính danh kẻ trí.
Sớm đạt tam muội
tri thức gần gủi
tu pháp Phật khen
giáo hóa chúng sanh
trụ sâu định pháp.
Kiên Ý Bồ Tát
nếu đủ bốn pháp
thì việc tu hành
tam muội chóng thành.
Những gì là bốn?
1) Khéo biết tướng các duyên
2) Khéo phân biệt các duyên
3) Biết các duyên thường thay đổi
4) Khéo biết bổn hạnh(6)
Ðủ bốn pháp như thế chóng thành tựu thông suốt được định.
Lúc bấy giờ đức thế Tôn nói bài kệ rằng:
Bồ Tát đa văn thêm trí tuệ
Tâm vị tha nói ra tam muội
pháp lành chư Phật được nghe thấy
nên vì người truyền trao giảng dạy.
Do quán thân Phật như tướng thật
là pháp tu tam muội nghiêm mật
trong thân tướng trang nghiêm của Phật
thâm tâm niệm tưởng tướng sai biệt:
thân tướng và băm hai tướng tốt
hình tướng, sắc tướng, quang minh tướng
diện mạo, lông mi, tướng bạch hào (7)
nhơn tôn tướng ấy niệm nghĩ thường
hiển bày các tướng tại mục tiền
Luôn luôn quán sát tướng sai biệt
cũng như mỗi phần của sắc thân
chẳng phải một tướng là thân Phật
chú tâm phân tích các Phật thân
Tâm vốn vô hình bổn tánh thanh.
Liên tục tùy duyên niệm đổi thay
thuận duyên các tướng phát hiện ra.
Biết rõ tâm tướng lại qua không dừng
là hiểu pháp duyên sanh diệt luôn
Pháp phát sanh do niệm phân biệt
nếu không phân biệt là an lạc.
Khéo biết tâm tánh tướng chuyển đổi
cũng biết các duyên là huyễn thôi.
Biết pháp thế gian như lửa đốt
rõ thế rồi tâm không hoảng hốt.
Nghĩa các pháp đều như thế cả
tức biết các tướng Phật biến hóa
không cố chấp tướng lạ hình Phật
Biết các thế giới đều không thật.
Trong mọi duyên không ôm tướng chấp
biết được thân tâm luôn chuyển dời.
Pháp như thế rõ ràng niệm quán
chóng được tam muội hằng soi sáng
hiện thần thông mỗi khi thuyết giảng
nói những điều chánh đáng chẳng sai
làm chúng sanh mở khai tâm thiện
đạt pháp mầu vi diệu thậm thâm.
Này Kiên Ý, Bồ Tát có bốn pháp nên thành tựu được tam muội, nên vì người khác mà giảng giải. Những gì là bốn?
1) Có được tam muội rồi nên chuyên cần tinh tấn không dừng nghỉ, ngày đêm thường đi kinh hành. Lúc muốn ngồi thiền trước hết phải nghĩ tới Phật đang ngồi tòa đạo tràng ở trước mặt, đang bố thí pháp cho chúng sanh không tiếc.
2) Ðối với người thuyết pháp xem như thấy đức Thế Tôn
3) Phân tích tự thân không nương pháp, đem cái không nương ấy thuyết cho chúng sanh hiểu rõ.
4) Bồ Tát thực hành như thế, nghĩ như thế, duyên như thế, ở yên nơi pháp tòa, bố thí pháp rộng khắp nên được tam muội, hoặc có Bồ Tát từ pháp tòa đứng dậy liền được tam muội.
Lại nữa này Kiên Ý, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp, là đạt được tam muội. Những gì là bốn?
1) Bồ Tát vì người mà xuất gia tu hạnh viễn ly, lìa bỏ những nơi ồn náo.
2) Chỉ chứa đủ ba y, lìa tâm tham chấp. Ở chúng tại gia và chúng xuất gia không tạo các mối buộc.
3) Xa hẳn những lỗi quấy phi pháp
4) Ðược pháp nhẫn sâu xa, ưa thích vắng lặng.
Kiên Ý, Bồ Tát thành tựu bốn pháp ấy liền được tam muội.
Này Kiên Ý, nếu Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp cũng được tam muội vậy. Những gì là bốn?
1) Bồ Tát tại gia giữ gìn năm giới, mỗi ngày chỉ ăn một bửa
2) Nương nơi chùa tháp, học rộng nghe nhiều
3) Thấu triệt các luận thuyết, cũng như thân cận các bậc thiện tri thức
4) Khéo biết đem pháp tam muội ra giáo hóa.
Này Kiên Ý, Bồ Tát tại gia nhờ thành tựu bốn pháp ấy nên đạt được tam muội.
Lại này Kiên Ý, nếu Bồ Tát tại gia hay xuất gia thành tựu bốn pháp sau đây đạt được tam muội. Những gì là bốn?
1) Hoàn toàn giữ giới thanh tịnh trong mọi sinh hoạt không còn nghi ngờ
2) Nhờ tam muội, không tham tiếc thân mạng, không nương pháp
3) Tùy chỗ nghe, đem tam muội ấy ra giáo hóa
4) Ở cõi người niệm tưởng đức Thế Tôn
Lúc tu niệm Phật tam muội như thế lìa được tâm keo kiệt (8) .
Này Kiên Ý, nếu Bồ Tát tại gia hay xuất gia có được bốn pháp trên đạt được tam muội.
Kiên Ý, nếu người phát tâm Ðại Thừa muốn được tam muội nên tu bốn pháp lợi ích sau đây. Những gì là bốn?
1) Nên quán thân bất sanh, bất tịnh
2) Nên quán thọ bất sanh, là khổ
3) Nên quán tâm bất sanh, vô thường
4) Nên quán pháp chẳng sanh, vô ngã.
Kiên Ý, Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy trợ lực cho tam muội này.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Bồ Tát nên tu tập
chỗ Phật khen niệm xứ
Nơi tỳ kheo hành xử
hay được tam muội này.
Cần phải phân tích thân
cũng chẳng ham nương tựa
Do tâm không nương tựa
nên đạt được tam muội.
Trong tâm pháp với ‘thọ’
cũng không nơi nương tựa.
Pháp khó nghĩ bàn ấy
đạt được tam muội này.
Cần tu tập tứ thiền (9)
và bốn pháp chánh cần.
Không nương tựa pháp nào
nên được tam muội này.
Với bốn như ý túc
và bốn trí vô ngại
là pháp phải học hỏi
chớ sanh tâm giải đãi.
An trụ trong giới thảy
gần thiện tri thức dạy.
Người nói tam muội ấy
tưởng như thấy Thế Tôn.
Ða văn là căn bổn
từ trong tam muội đến.
Tùy chư Phật đã nói
tu như lời chỉ giáo.
Ðấy là mắt sáng tạo
pháp nhãn không gì cao
không một chướng ngại nào
để chỉ giáo chúng sanh.
Căn bản từ các kinh
đa văn pháp phát sanh
Bồ Ðề từ đây thành.
Thế nên tu học thường
Phật hiện khắp mười phương.
Bốn trí vô ngại tưởng
phát ra từ nơi đó.
Tu học cần kiên cố
Bồ Tát được như thế
đạt tam muội Phật nói.
Người ấy lúc nói pháp
biện bác không cùng tận
nên đối với các pháp
thấu rõ tướng chân thật.
Như biển không tăng giảm
nên không ai đội nổi.
Nếu được tam muội rồi
không chỉ dạy cho người
cũng như lúc nghe pháp
chẳng xét người khác thuyết
trời, rồng, quỉ, long vương
dạ xoa, khẩn na la
chúng nhơn, phi nhơn thảy
Quán xét Bồ Tát nói
trụ trong tam muội ấy.
Tâm chúng sanh rõ thấu
biết điều chúng ưa muốn
để tùy nghi giảng bày.
Ta trong kinh pháp này
nói đến chư Phật thảy
Vì trụ trong tam muội
nên biết rõ danh tự
cũng như biết chư Phật
diễn nói đủ các pháp
tùy theo tâm nghĩ suy
tức thì đều liễu tri
Phật Thế Tôn các vị
chúng đệ tử tu trì
trụ trong tam muội này
thảy đều nghe biết cả.
Rõ biết Phật, thế giới
việc trang nghiêm như thế
cũng biết tuổi thọ mạng
nhờ rõ được tam muội.
Biết các kiếp, số tuổi
cùng nhựt nguyệt, thời tiết
mười phương trong trời đất
chư Phật lưỡng túc tôn
thông suốt không gì hơn
Cũng biết các cõi Phật
và cả chư Thế Tôn
đều có tên sai biệt
tam muội khéo tu tập
nên thảy đều thấy biết.
Cũng biết chư Thế Tôn
cùng các chúng đệ tử.
Vì họ nói pháp ngữ
tất cả đều thông đạt.
Các pháp diệu thâm mật
chỗ thực hành chư Phật.
Tam muội khéo tu tập
thảy đều thấy biết hết
Ở trong đời vị lai
vô lượng chư Thế Tôn
tên gọi và giòng dõi
tất cả đều biết rõ
cũng như biết tuổi thọ
cùng chúng đệ tử cả
kinh pháp đã nói ra
đều có thể biết suốt.
Biết chư Thế Tôn Phật
mỗi vị tịnh trang nghiêm
chư Phật diệt độ xong
giáo pháp trụ bao lâu
định trong tam muội sâu
Việc này đều rõ thấu
đa văn muốn mong cầu
nên tu tam muội nầy.
Nhân tập tam muội ấy
các nghĩa thú hiểu thấu
Nên biết tam muội này
nhập Phật trí ban đầu
làm lợi lạc muôn loài.
Trí tuệ Phật sáng soi
nhờ từ đó phát sanh
vô lượng các phước lành.
Nếu người phát tâm thành
cầu Bồ Ðề đạo Thánh
cúng dường Phật quá khứ
cùng các chúng đệ tử.
Cúng mỗi vị Phật đủ
và các hàng đệ tử.
cõi ba nghìn bỏ cả
châu báu ở đại thiên
dùng của báu như trên
đầy đủ một kiếp tròn
đều cúng dường không tiếc.
Chư Phật và Thánh triết
trong đời vị lai tiếp
và cả chư Thế Tôn
cũng tận tâm cúng dường
cùng đệ tử các Ngài
Kiên Ý nên biết rằng
người ấy có phước duyên
cầu Phật vô thượng pháp
được trí bất khả thuyết.
Người cầu Phật chí quyết
tu tập tam muội pháp.
Từ tam muội ấy đạt
được đa văn cao tột.
Ða văn đạt hoàn tất
thuyết rộng cho chúng nhờ
Phước đây hơn phước kia
khó có thể suy lường
Phước báu khó hạn lượng
làm trí huệ tăng trưởng.
Tu pháp tam muội tướng
không nương Phật cúng dường.
Nếu đem hoa, dầu, hương
đồ ăn mặc, thuốc thang
Chư Phật nguyện cúng dường
ấy không tướng chân thật.
Như Lai ngồi đạo tràng
chứng được vi diệu pháp.
Người nào ham tu học
ấy chân thật cúng Phật.
Như người cầu đạo giác
muốn thấy được chư Phật
cần tu pháp nghiêm mật
sớm đạt tam muội này.
Nếu nghe tam muội đây
sanh tâm hoan hỷ ngay
chúng sanh kia chính là
từng thấy Phật hằng sa…
Lại này Kiên Ý, nếu người thiện nam, tín nữ cầu Phật đạo, cúng dường trang trí chùa tháp Phật đầy đủ được bốn đại nguyện thanh tịnh. Những gì là bốn?
1) Ðược sắc thân thanh tịnh số một
2) Sanh ra đời thường được lìa nơi chướng nạn
3) Bền lòng giữ gìn thiện pháp
4) Thường thấy chư Phật có lòng tin vững chắc, nên chóng đạt được vô thượng
Bồ Ðề, truyền bá giáo pháp nhiệm mầu sâu rộng. Ðó là bốn pháp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Kẻ trí thường cúng dường
chư Phật, tạo chùa tháp
chư thánh hiền xưng tán
được bốn pháp vô hạn
thường sanh nơi không nạn
hay thấy được chánh chân
chư Phật thường thấy luôn.
Thấy Phật tâm tịnh thanh
được tin sâu vững bền
bất động như Tu Di
quyết định được Phật trí
chóng thành vô thượng đạo.
35. Phẩm Phó Chúc Thứ Ba Mươi Lăm
Lại này Kiên Ý, nếu có thiện nam, tín nữ nào phát tâm Ðại thừa hoặc lúc Phật còn tại thế hay đã diệt độ mà đem các thứ hương hoa, chuỗi anh lạc cúng dường Phật. Do nhân duyên đó nên đầy đủ tám phước báu
1) Ðược sắc thân đầy đủ
2) Tài vật đầy đủ
3) Quyến thuộc đầy đủ
4) Trì giới đầy đủ
5) Thiền định đầy đủ
6) Ða văn đầy đủ
7) Trí huệ đầy đủ
8) Chỗ mong cầu đầy đủ. Ðó là tám loại phước đức đầy đủ
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Nếu người cầu Phật đạo
cúng dường chùa tháp miếu
đời đời được phước báu.
Ông nên lắng nghe kỹ
thường đầy đủ sắc thân
người ấy thanh tịnh tâm.
Phước đức đại giàu sang
được gặp thiện quyến thuộc
cùng tu trong giới luật
nên thiền định thâm nhập
được trí huệ đa văn
sâu rộng như đại dương.
Nếu mong cầu của cải
đều được thành tựu cả
được tôn quí trong đời
ruộng tốt vào bậc nhất.
nhờ căn lành đời trước
được băm hai tướng tốt
phước tướng chợt hiện ra
trang nghiêm cả thân thể
cứ mỗi tướng như thế
xinh đẹp tốt trang nghiêm
Nơi mỗi các tướng kia
có tám mươi tia sáng.
Trong mỗi một tia ấy
chiếu soi thật rõ ràng
tám mươi vẽ đẹp thanh
những tia sáng kết thành
do nhân duyên thiện nghiệp
và do nguyện phát sanh.
Tùy theo nguyện khác biệt
mà được tướng chân thật
Nơi mỗi lòng bàn chân
có tướng tốt nghiêm trang
Nhờ thần lực, phước đức
Ông rất mực lóng nghe.
Trong lòng mỗi ngón chân
tướng tốt chiếu hiện ra
có ánh sáng chói lòa
ẩn tàng ở trong đó
ánh sáng chiếu rọi xa
như gặp được ngọc ngà
sáng ấy như trăng tỏa
chóp Tu Di lơ lững.
Tên Kiên tập có tướng
tám mươi ức tia sáng
Mỗi tia có tên khác
cũng có sức sáng riêng.
Ta từ một tia viền
hiện ra nghìn loại sắc
vây quanh cõi đại thiên
xuống trần làm Phật sự.
Nếu ta phóng quang đủ
chỗ thiện nghiệp sáng tỏ
thế giới có lớn nhỏ
dứt sạch hết phiền não.
Ánh sáng ấy hiện vô số Phật
đi khắp mười phương các cõi nước
làm Phật sự để được độ sanh
lực thần thông biến thành như thế
Ta có tam muội tỏa khắp nơi
dùng tam muội thấy hết thế giới.
Tam muội này tên Tu Di Tướng
tia sáng thiện pháp thường hiện ra
Thủ Lăng Nghiêm tên là tam muội
hơn hết thảy môn này cao vọi
nhờ tịnh tâm nên được như vậy
thấu rõ mười phương không chướng ngại.
Có người thấy Phật hiện diệt độ
hoặc Phật hiện đang nhập vào thai
có người thấy thế không khiếp hãi
Ngài dạo đi tự tại tâm an
hoặc thấy Phật ngồi tòa đạo tràng
mà cho rằng ta đang thành Phật
hoặc thấy ta hiện chuyển pháp luân
hay thấy ta tu Bồ Tát hạnh
Các vị quán chiếu trong tam muội
Phật trụ ở trong được tự tại.
Có kẻ biết ta thọ một kiếp
hoặc nửa kiếp có người rõ biết
Kẻ thấy ta thọ một tiểu kiếp
hoặc hai, ba, bốn hay hơn thế.
Kẻ thấy ta thọ một ức năm
Người lại thấy hơn, kẻ ít hơn
còn cõi Diêm Phù Ðề chúng nhơn
biết ta thọ mạng tám mươi năm
hoặc thấy ta thọ một ngày đêm
hay kẻ biết ta sống lâu thêm
và chúng cõi tam thiên đại thiên
rằng: ta thọ ngày đêm cõi trời
Ta biết họ tâm vui phơi phới.
Tùy chúng ưa thích lợi pháp ban
tùy nơi cần thị hiện rõ ràng.
Mỗi người tự cho rằng ta thuyết
tâm hoan hỷ tin chắc hiểu liền
Thần thông lực vô biên Phật hiện
làm việc đó hiển nhiên ta sử
cả bọn phàm phu đều cuồng nộ
việc Như Lai trong số đã làm
Các ngươi giả thấy đâu dám biết.
Nếu Bồ Tát rõ thiệt ta hành
là người thay thế chuyển pháp luân.
Những người nói pháp đều ưa thích
mong sao biết hết chỗ ta hành.
Nếu không biết thì trí khó thành.
Nói như thế mong manh vô cớ
nghe pháp rồi rất dễ thối tâm
Ta nhân đó nói ‘vô sở thuyết’
Người nào hay biết trí rộng khắp
là kẻ tâm không hề thối thác.
Bình đẳng trong hết thảy các pháp
là người tùy thuận chỗ ta làm.
Kiên Ý nên biết các kinh văn
đời vị lai không ai thọ trì
Duy tám vị Bồ Tát hội này
Nay chắp tay đang đứng trước ta.
Kiên Ý nên biết họ chính là
người biết rõ pháp ta sâu rộng
đứng hàng đầu pháp hội trong đây
Soi đuốc tuệ mở bày Phật pháp
dạy chúng sanh Bồ Tát thiện tâm.
Vì chư Phật một lòng xưng tán
như nay họ đang đứng trước ta.
Phật quá khứ chính là các vị
bậc Thế Tôn số lượng hà sa.
Những người hiện hữu ở trước ta
cả năm trăm từ tòa đứng dậy
chấp tay đồng cúi lạy bạch thưa
nguyện nghe Phật hộ pháp kế thừa.
Kiên Ý chính là người trong số
tám mươi vị Bồ Tát thuở xưa
cùng lo ủng hộ Phật pháp nữa.
Thế Tôn, con trong đời vị lai
thọ trì Phật pháp hành đúng thuyết
nên trong đời trược loạn xấu ác
rộng lưu truyền chánh pháp khắp nơi
Thế Tôn Ngài tìm tới thọ ký
rồi bay lên không bảy dặm xa
tám mươi ức người cả thọ lạc
mỗi người tự biết được thọ ký.
Bấy giờ Phật bảo A Nan kỹ:
ông trong đời ác chí về sau
Có thọ trì được các kinh không?
Ðáp: thưa Thế Tôn, con bất kham
Phật biết nên hỏi Ca Diếp thêm:
sau ta diệt độ ông có thể
thọ trì kinh pháp được như thế?
Ðáp: thưa Thế Tôn, con bất kham.
Ta hay nắm giữ ba nghìn cõi
biển cả, núi rừng khắp đó đây.
ngoài ra hết thảy đều trong tay
Ðời ác sau không ai hộ pháp
Tỳ kheo nay phần nhiều tệ ác
không theo đúng giáo pháp Thế Tôn
huống gì sau khi ta diệt độ
kinh điển thâm huyền ai tín thọ?
Chắc chắn lời ta dự thế này:
các ông quờ quạng không trí huệ
làm sao có thể dạy chúng tôi?
Người lợi căn tức thời luận tỏ
Thế Tôn, những người tệ ác đó
thích tranh luận ngoại đạo, sách đời
xa lìa thiền định sâu mầu nhiệm
mà tham việc đắm nhiễm thế gian
lòng dục nhiều lại càng không đủ
tham thức ăn ngon, cầu lợi dưỡng.
Ta không sao cứu bọn ác nổi
thấy như thế ta thêm bối rối.
Lúc một mình ta chỗ thanh vắng
các trời Thích, Phạm đến hỏi rằng:
nay Thế Tôn nói pháp phải chăng?
Khiến chúng sanh vào thẳng Thánh đạo
có tỳ kheo kia được vô lậu
hay có thần thông đến giác ngạn (bờ giác ngộ)
Ta nghe như thế tâm hỷ hoan
trả lời trời Thích rằng, quái dị
ác thế đời sau, Thích, Phạm Thiên
đến chỗ ta kêu khóc rống lên:
Ðại Ðức nên biết pháp sắp diệt.
Ta nghe thế lòng sầu não nuột
không thể nào nói tuốt tội duyên
cũng không thể nào giữ được kinh
Cũng khó mà có thể chứng minh.
Tỳ kheo đời ác hình khó nói
Lúc ấy thiên thần dõi khóc kêu.
Bấy giờ Phật bảo theo Ca Diếp:
ta biết trước rằng ông không thể
thọ trì, hộ vệ pháp Như Lai
Chúng đệ tử Thanh Văn các Ngài
không thể thọ trì kinh này được
Duy chỉ Bồ Tát nhờ Phật lực
mới thọ trì được pháp này thôi.
Ðời ác sau có thể sanh nghi
Nay ta phải trừ đi cho người.
Cớ sao kinh này trước vốn không
chúng tỳ kheo đồng lòng tự tạo
hoặc thấy kinh đây nhiều vô lượng
đem đọc tụng mà tâm run sợ
Vì kinh sâu rộng, sanh tán loạn
ai hay đọc tụng nghĩa rốt ráo?
Có người thấy ông hỏi đạo ta
cũng nghe ta vì ông nói qua.
Người ấy trong đời xấu ác sau
nghe kinh này chóng mau hoan hỷ
Phật nói pháp hộ trì như thế
vô lượng chúng phát tâm Bồ Ðề
Những chúng sanh này đều nghĩ rằng
Ta trong đời sau nghe pháp hẳn
phải cung kính sánh bằng Thế Tôn
Một lòng cầu Phât trí thậm thâm
cúng dường xá lợi và chùa tháp
các loại trang nghiêm tạo tượng hình.
Lúc bấy giờ A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo hở vai bên mặt chắp tay quì gối sát đất bạch Phật rằng: bạch Thế Tôn, nên gọi kinh này tên là gì? và phải thọ trì như thế nào? Phật bảo A Nan: kinh này tên là Nhiếp Chư thiện căn, cũng gọi là Y chỉ công đức kinh, cũng gọi là an ủi tâm chư vị Bồ Tát, cũng gọi là chỗ thưa hỏi của Bồ Tát, cũng gọi là đoạn hết nghi ngờ cho chúng sanh kinh, nên thọ trì đúng như thế.
Phật nói kinh xong Bồ Tát Huệ Mạng, A Nan, Kiên Ý cùng chư thiên, long thần, càn thát bà, a tu la, nhơn và phi nhơn…tất cả đại chúng đều lấy làm đại hoan hỷ tin nhận lời Phật dạy.
Chú thích:
(1) Chư hành: các hành, có nghĩa là dời đổi từ chỗ này đến chỗ khác. Các pháp hữu vi do nhân duyên mà sanh ra, dời đổi trong ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Các pháp hữu vi có rất nhiều ở nơi tâm hoặc ở nơi cảnh, cũng đều gọi chung là chư hành.
(2) Kim cang: cứng rắn như chất kim cang khó gì có thể làm nao núng được, lửa cũng không làm chảy được. Có bộ kinh Kim ang là dụ cho nghĩa này.
(3) Pháp tạng: kho tàng giáo pháp bao hàm những pháp đức Phật đã thuyết
(4) Trùng cú môn: câu trùng lặp như cửa nhiều lớp chồng khít lên nhau, giống thể văn kệ tụng có nhiều câu trùng ý lặp đi lặp lại nhiều lần cho hành giả dễ thâm nhập lý đạo.
(5) Ðệ nhất nghĩa: ý nghĩa vào bậc nhất. Những kinh pháp do chư Phật và Bồ Tát thuyết để giáo hóa chúng sanh tu hành chánh đạo, thuộc hai lãnh vực: chơn đế và tục đế. Chơn đế hay đệ nhất nghĩa đế là giáo lý cao siêu của hàng thánh giả, bậc xuất gia tu trì đạt đạo giải thoát, nên cũng gọi là thắng nghĩa đế.
(6) Bổn hạnh: hay bản hạnh là hạnh gốc hoặc chánh hạnh của người tu học Phật. Lập bổn hạnh là phát nguyện căn bản, cố đeo đuổi tới cùng không bỏ.
(7) Tướng bạch hào: tướng lông trắng giữa chặn mày của đức Phật. Ðó là một trong 32 tướng tốt của Ngài. Chỉ có Phật mới có được tướng tốt này.
(8) Tâm keo kiệt: lòng bỏn sẻn, nhỏ mọn, tính từng li từng tí miễn sao có lợi cho mình là được.
(9) Tứ thiền: bốn phép tu thiền định là sơ thiền, có thể xuất thần và thác sanh lên những tầng trời Phạm thiên, Phạm chúng, Phạm phụ hay Ðại phạm; nhị thiền: sanh lên những tầng trời Thiểu Quang,Vô Lượng Quang, Quang Âm thiên; tam thiền: thuộc cõi Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh và Biến Tịnh thiên; tứ thiền: có sức định thần siêu thoát khỏi cảnh Tiên ở cõi dục, và cõi sắc.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






