Luận Về Đạo Quả Trong Phật Đạo

TẦNG BẬC THÀNH TỰU ĐẠO QUẢ TRONG PHẬT ĐẠO
Các bạn! ... Trên con đường tiến về Vô Thượng Trí... người tu hành phải kinh qua bốn tầng bậc bình đẳng, được sắp xếp theo thứ tự: Bình Đẳng, Đẳng, Vô Đẳng Đẳng và Vô Thượng Chánh Đẳng! Bốn thứ bình đẳng này, là kết quả thực chứng từ sơ ngộ đến liễu ngộ, thông qua quá trình tu tập bốn món là: Kiến, Tâm, Trí và Huệ! Tầng bậc thành tựu đạo quả có thể hiểu như sau:
1) Kiến Bình Đẳng (đạo quả thứ nhất): Có được sơ ngộ, vị tu hành dừng phân biệt, không sinh pháp, từ đây lậu hoặc (kiết sử phiền não) hoàn toàn tịch diệt, thấy nghe không bị che chướng. Vì thế, đối trước cảnh duyên, vị tu hành sáng suốt, không u tối. Giống như một người mắt sáng, đứng trước hồ nước không bị nhiễm ô, nhờ nguồn nước trong suốt, người ấy có thể nhìn thấy mọi vật trong hồ một cách rõ ràng.
֎ ... Có được cái thấy như vậy, Phật đạo gọi là “Kiến Bình Đẳng”. Kiến Bình Đẳng là cái thấy đầu tiên, và cũng là nền tảng làm nên các đạo quả sau này! ... ֎
2) Chứng Đẳng Tâm (đạo quả thứ hai): Sau khi có được cái thấy sáng suốt, lậu hoặc cùng các pháp không còn nhiễm ô thấy biết... Vị tu hành “hướng nội”, dùng cái thấy ấy, lặng lẽ quan sát bổn tâm, người này trực nhận ra “tâm này xưa nay vốn tự thanh tịnh, bất động”. Giống như một người mắt sáng, vào đêm trăng tròn, đứng trước hồ nước trong suốt, nhìn thấy bóng trăng hiện dưới đáy hồ, nhưng hồ nước không hề lay động hay vẩn đục. Sau khi hướng nội để thấy được bản chơn, vị ấy lại “hướng ngoại” quan sát vạn loại hữu tình. Quan sát vạn loại hữu tình, vị ấy nhận ra “tính chất đồng đẳng tự chơn” từ bản tâm của muôn loài.
֎ ... Có được cái thấy này, Phật đạo gọi là thành tựu “Đẳng Tâm”. “Đẳng kiến” hay “Đẳng Tâm” chính là sự nhận biết rõ ràng phàm và thánh tự vô thuỷ bản tâm không sai khác. Đây là giềng mối làm nên đạo quả vô vi! ... ֎
3) Vô Đẳng Đẳng Trí (đạo quả thứ ba): Sau khi có được Đẳng Tâm, vị tu hành quán hết thảy chúng sinh, từ người hạ liệt đến kẻ cao sang, từ người có trí đến kẻ u mê. Tất cả đồng một bản chơn, nhưng vì mê muội, những chúng sinh ấy như người hốt nhiên lấy miếng vải đen che kín đôi mắt, từ đó chịu sống trong tăm tối. Quán sát như vậy, vị tu hành phát khởi từ bi tâm, trên cầu Phật quả, dưới nguyện độ hết thảy chúng sinh, vị ấy quyết tâm cầu học trí tuệ. Để có được trí tuệ, người này không tiếc thân mạng, dù lên rừng hay xuống biển, ở đâu có Thiện Tri Thức, nhất định đến cầu học. Học được trí tuệ, vị ấy phát nguyện: “Chư thánh xưa giáo hoá chúng sinh như thế nào, hôm nay ta cũng giáo hoá chúng sinh như thế ấy!”
֎ ... Thành tựu trí và nguyện như thế, Phật đạo gọi là thành tựu “Vô Đẳng Đẳng Trí”. Gọi là vô đẳng đẳng vì chư thánh ba đời trí tuệ không hơn kém! ... ֎
4) Vô Thượng Đẳng Huệ (Bồ Tát thành tựu đạo quả cuối cùng, con đường dẫn đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác): Có được Chánh Trí, như người thầy thuốc giỏi, vị tu hành bây giờ có thể chữa lành tâm bệnh của tất cả chúng sanh. Người này lấy công hạnh giáo hoá làm đời sống, công đức tăng trưởng, từ bi tăng trưởng. Như ngọn đuốc sáng, vị ấy dùng phép Vô Tận Đăng tiếp tục thắp sáng vô lượng ngọn đuốc khác trao cho chúng sinh, tạo ra sức ảnh hưởng to lớn, gọi là “huệ lực”
֎ ... Đến khi huệ lực viên mãn gọi là “Vô Thượng Đẳng Huệ”. Với Vô Thượng Đẳng Huệ, vị ấy nhiều đời làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, đời rốt sau đủ mười danh hiệu như chư Phật quá khứ, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác! ... ֎
Trên đây là những nét khái quát về bốn đạo quả cơ bản, mà một người tu hành phải trải qua trong quá trình tiến về Vô Thượng Bồ Đề. Để giúp các bạn có những kiến thức nhất định về Đạo Nhất Thừa, mình có một số câu hỏi liên quan như sau:
- CÂU HỎI−TCTT 2018/12.2_Luận Về... “Đạo Quả Trong Phật đạo”
1) Trong bốn đạo quả kể trên, đạo quả nào thuộc về Ba Thừa, đạo quả nào thuộc về Nhất Thừa? Nhất Thừa khác Ba Thừa ở đặc điểm cơ bản nào?
2) Trong bốn đạo quả, đạo quả nào vĩnh viễn chấm dứt Phần Đoạn Sanh Tử của một chúng sinh? Vì sao đạo quả đó có năng lực vĩnh viễn chấm dứt Phần Đoạn Sanh Tử?
3) Trong bốn đạo quả, đạo quả nào hình thành Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử... Và Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử chấm dứt ở đạo quả nào? Tại sao lại như vậy?
4) Trong bốn đạo quả, giai đoạn nào thuộc về Hậu Biên Thân... Giai đoạn nào thuộc về Tối Hậu Thân? Chữ “Thân” trong Hậu Biên Thân và Tối Hậu Thân nhằm chỉ cho điều gì?
Rất mong nhận được những kiến giải lý thú từ HĐ! (18-11-2018)
GỢI Ý... TCTT 2018/12.2_Luận Về “Đạo Quả trong Phật đạo”
Các bạn! ... Có một số chi tiết, các bạn cần chú ý để giải quyết thoả đáng câu hỏi, đó là, đặc điểm khác biệt giữa Nhất thừa và ba thừa, cũng như chữ “Thân” trong “Hậu Biên Thân” và “Tối Hậu Thân”!
- Về ba thừa và Nhất thừa: Điều mình muốn hỏi là, đặc điểm của Nhất thừa và ba thừa khác nhau ở đâu. Có nghĩa, mình muốn các bạn nhận ra điểm dị biệt, hay nói khác hơn là sự khác biệt về mục tiêu, về lí tưởng của hai thừa nêu trên. Hình như khi đọc câu hỏi, các bạn nhầm lẫn thành phương pháp tu tập! Sở dĩ có câu hỏi này là vì trước đây, khi còn tu tập trong ba thừa, mục tiêu của chúng ta là, làm thế nào để có thể giải quyết tốt nhất những gì liên hệ đến tự thân theo tinh thần Phật đạo! Nhưng, sau khi đã giải quyết tự thân, mục tiêu của chúng ta không dừng lại ở đó, với lí tưởng xa rời quyền tiểu, với lí tưởng vì tất cả chúng sinh, với tâm nguyện thành tựu Phật quả... Từ đây, ta sẽ nhận ra những đặc điểm khác biệt cơ bản giữa hai thừa nêu trên!
- Về chữ “Thân”: Từ xưa đến giờ, khi nói đến “Thân”, người ta liền nghĩ đến sắc thân hay thân tứ đại. Nhưng, trong Phật đạo, chữ thân không chỉ giới hạn trong hai nghĩa đó, mà đôi khi, chữ thân còn mang tính đại diện cho một chủ thể, ví dụ như ba thân Phật, trong đó Hoá Thân và Pháp Thân hoàn toàn không phải là sắc thân! Đôi khi chữ thân, còn hàm chứa như một hình thức tiêu biểu, ví dụ như danh, cú, hình thân. Cũng có lúc chữ thân lại nói đến một đời sống, một nhận thức, ví dụ như Ý Sinh Thân!
Nói chung, muốn hiểu chữ thân trong Phật đạo chỉ cho điều gì, chúng ta phải căn cứ vào hoàn cảnh, ngữ cảnh, nội dung câu chuyện mới có thể biết đích xác chữ thân muốn nói ở nghĩa nào! Mục tiêu đưa ra câu hỏi này, nhằm giúp các bạn làm quen một số khái niệm mới, những từ ngữ tiêu biểu của Nhất thừa mang nhiều ý nghĩa trong Phật đạo. Làm quen với khái niệm mới, khi đọc kinh, chúng ta sẽ không bị văn tự dẫn ta hiểu sai cảnh giới. Ví dụ, trong kinh thường mô tả, Bồ Tát thần thông quảng đại, có thể đưa một chúng sinh từ cõi này đến một cõi khác, hay đưa chúng sinh du hí qua vô lượng cõi nước chỉ trong một niệm, tuy đi qua các cảnh giới như vậy, nhưng vị chúng sinh đó không hề thấy thân lay động! Khi đọc đến đây, chúng ta thường liên tưởng vị Bồ Tát cắp một chúng sinh bay liệng trên không trung, như con diều hâu xớt một con gà rồi bay lên trời. Thậm chí, đôi lúc chúng ta còn tưởng tượng ra, một vị Bồ Tát có thần thông, giống như các cao thủ trong phim võ hiệp, bay tới bay lui trên nóc nhà, hoặc từ đỉnh núi này đến đỉnh núi nọ!...
Chính hiểu biết, cùng sự liên tưởng mang tính thần thoại này, vô tình đã giết chết nghĩa kinh. Thật ra, đoạn kinh trên, nhằm ám chỉ việc một Bồ Tát với sức “thần thông ngôn thuyết” của mình, có thể khai thị, tuyên thuyết giúp chúng sinh giác ngộ, do giác ngộ “tâm thức của chúng sinh đó chuyển từ cảnh giới này đến cảnh giới khác”. Có nghĩa rằng, tâm thức họ chuyển, chứ thân tứ đại không hề di chuyển. Giống như chuyện Lão Lý và Đại Sư Huyền Không bay qua hồ Tự Tâm trong Tâm Pháp, đây chỉ là hình ảnh tiêu biểu về cảnh giới hai người vượt qua biển tâm hư vọng. Thực tế, sắc thân Lão Lý chả khác gì mọi người, chỉ cần rớt từ trên cao chừng hai thước xuống đất, nhất định phải mang ra garage làm đồng và sơn lại!... (20-11-2018)
Để có thể giải quyết mọi vấn đề của Phật đạo, Tứ Đế luôn luôn là mực thước để người tu hành lấy đó làm căn cứ lí giải tất cả đạo quả. Vì rằng, mọi đạo quả trong Phật đạo, chính là những lớp học từ thấp lên cao của bốn cấp học Tứ Đế! Ta có thể thấy:
- Đạo quả “Bình Đẳng”: Đạo quả tương đương với Khổ Đế và Tập Đế (Tập Chủng Tánh). Sở dĩ gọi là “Kiến Bình Đẳng”, vì ở đạo quả này, người tu hành nhờ sơ ngộ, dừng phân biệt, không sinh pháp, thấy nghe không bị nhiễu loạn, lậu hoặc (khổ, phiền não, kiết sử) được coi như tạm tịch diệt. Tuy rằng, đây là cảnh giới vô lậu, nhưng chúng sanh tánh chưa hoàn toàn đoạn dứt (chưa rốt ráo bất thối). Vì thế, Phần Đoạn Sanh Tử hảy còn nếu vị chúng sanh đó“không thể giác ngộ rốt ráo bổn tâm”, tức chưa thực chứng Niết Bàn Chơn Đế của Diệt Đế. Phàm cái gì chưa CHƠN, cái đó chưa thể... đáng... tin... cậy! Đây cũng là lí do vì sao Phật dạy đại ý: “Không thể tin vào tâm ý của một người chưa chứng Diệt Đế (A La Hán)!”
- Đạo quả “Đẳng Tâm”: Đạo quả tương đương với Diệt Đế... (Thánh Chủng Tánh, Tánh Chủng Tánh). Ở đạo quả này, nếu là Nhị Thừa vào thẳng Thánh Quả Vô Sanh (Chơn A La Hán). Nếu là Bồ Tát Thừa, chứng Thất Địa hay Bát Địa tuỳ vào trí tuệ, thành tựu Vô Sanh Pháp Nhẫn (Bất Động Địa).
Sự khác biệt giữa Nhị Thừa và Bồ Tát Thừa sẽ chấm dứt khi cả hai thừa đồng viên mãn Diệt Đế, tức cùng Giác Ngộ Bổn Tâm! Vì thế, tuy cùng một Diệt Đế, nhưng lại có đến ba quả vị sai khác là Lục Địa, Thất Địa và Bát Địa, tức người mới vào Diệt Đế và người viên mãn Diệt Đế, công đức và trí tuệ không đồng nhau!
Đạo quả Đẳng Tâm hay Diệt Đế là đạo quả của người tu hành chứng Niết Bàn Chân Đế. Người trong đạo quả này, vĩnh viễn chấm dứt chúng sanh tánh, gọi là chấm dứt Phần Đoạn Sanh Tử. (“Phần Đoạn Sanh Tử” là thuật ngữ, nhằm chỉ cho các loại tâm thức hãy còn sanh diệt theo nghiệp. Kinh gọi là “chết đây sanh kia trong sáu thú”. Ta có thể hiểu, các loại chúng sanh này, tâm thức không dừng, còn sinh khởi từ một tâm đến một tâm, thức nghiệp chưa thể tịch diệt như pháp!).
- Đạo quả “Vô Đẳng Đẳng Trí”: Đạo quả tương đương Đạo Đế (Đạo Chủng Tánh). Sau khi thành tựu đạo quả Đẳng Tâm (viên mãn Diệt Đế). Vị tu hành, phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, phát nguyện độ tận chúng sanh, cầu học Trí Tuệ. Nhờ đại nguyện, Niết Bàn Chân Đế bây giờ không còn là trú xứ ưa thích, với mục tiêu thành tựu Phật quả! Vị tu hành bằng lòng từ bỏ đạo quả an ổn mình đang có, một lần nữa lên đường tìm Thiện Tri Thức cầu học trí tuệ. Giai đoạn này, kinh gọi là “Bồ Tát từ bất động bước ra”, hay “Bồ Tát nhớ lại nguyện xưa”, hoặc “Bồ Tát nhập pháp giới”, cũng có khi gọi là “Bồ Tát nhập thế”. Các cụm từ “nhập pháp giới, nhập thế, từ bất động bước ra” nhằm chỉ cho cảnh giới của những vị tu hành đã thành tựu đạo quả Xuất Thế Gian, bây giờ quay trở lại thế gian để học và thấy rõ bản chất của các pháp thế gian, gọi là “nơi thế gian đạo, học xuất thế gian pháp”.
Đây là công đoạn của những vị đã chuyển đổi thành công “Thức Mê” thành “Căn Bản Trí”, hay nói khác, họ đã thấu suốt khái niệm “Thức tức Trí”. Có nghĩa rằng, với vị ấy, giữa thế gian và xuất thế gian không còn là hai pháp, Kinh Duy Ma Cật gọi cảnh giới này là “chứng Bất Nhị Pháp Môn”, đây là cảnh giới “Tận Vô Tận Giải Thoát”, tức chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi. Khác hơn, nơi hữu vi thấu tột nghĩa phi vô!
Ra khỏi ba cõi mê (thế gian), vào Niết Bàn (xuất thế), rồi từ bỏ Niết Bàn xuất thế, quay lại thế gian để học trí tuệ gọi là “nhập Nhất Thừa Đạo”. Giống như các dòng sông bắt đầu vào biển lớn! Hành trình Nhất thừa bắt đầu! Do chuyển đổi viên mãn thức thành trí! Trong quá trình học trí tuệ, tâm trí người tu hành phải trải qua nhiều lần giác ngộ... nhãn lực và nhận thức thay đổi liên tục... Sự thay đổi liên tục, kinh gọi là “Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử” ... Cụm từ Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử hàm ý rằng, tuy tâm và trí có sanh diệt (thay đổi), nhưng sanh diệt này ra khỏi nghĩ bàn hay suy lường của người thế gian (không giống sanh diệt của một phàm phu). Ta có thể hiểu nôm na, đây là một dạng “sanh tử theo nguyện”! Quá trình sanh diệt chỉ chấm dứt khi nào vị tu hành thành tựu Nhất Thiết Trí, còn gọi là viên mãn Bát Nhã Trí, chứng đạo quả Vô Đẳng Đẳng Trí... Trong Thập Địa, Bồ Tát này có quả vị tương đương địa thứ chín (Thiện Huệ Địa), tức Đẳng Giác Bồ Tát (còn gọi là Nhập Đẳng Giác Phật)!
- Đạo quả “Vô Thượng Đẳng Huệ” (Đẳng Giác Chủng Tánh): Đạo quả vượt khỏi quy trình giáo dục Tứ Đế, kinh gọi là Xuất Thế Gian Thượng Thượng. Viên mãn Đẳng Giác, chuẩn bị vào địa thứ mười là Pháp Vân Địa. Ở địa vị này, đã viên mãn Sai Biệt Trí, tức tâm và trí không còn thay đổi. Nhưng, năng lực giáo hoá, sức ảnh hưởng đối với chúng sanh chưa viên mãn, vì còn phụ thuộc rất nhiều vào công hạnh và số lượng chúng sanh được giáo hoá. Gọi là “Tuệ Lực chưa viên”!
Để có thể viên mãn “Tuệ Lực”, “để Tuệ Lực có thể bắt kịp Trí Lực”. Bồ Tát phải dày công giáo hoá, không tiếc thân mạng, lấy công hạnh làm đời sống! Đến khi Tuệ Lực viên mãn, Bồ Tát được thọ kí Nhất Sanh Bổ Xứ. Từ đây, với sức thiện xảo, nhập Hậu Biên Thân. “Hậu Biên Thân” hay “Hậu Biên Trí” là loại trí ở bờ mé cuối cùng trước khi chứng Đẳng Chánh Giác! Chữ “Thân” trong đạo quả này chính là “Trí Tuệ”. Với Bồ Tát đó, “Thân tức Trí, Trí tức Thân”, “Thân Trí Không Hai”. Chữ thân ở đây chính là “Pháp Thân”!
- Đạo quả “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”: Phật quả! Đây là quả vị cuối cùng và cao nhất trong Phật đạo (khi còn Bồ Tát gọi là Diệu Giác Chủng Tánh)! Với “công hạnh” sâu dày, với “trí tuệ” viên mãn, với “Tứ vô lượng tâm” đầy đủ. Bồ Tát nhập Tối Hậu Thân! Tối Hậu Thân hay Tối Hậu Trí là danh xưng tốt đẹp nhất dành cho một Thế Tôn Đẳng Chánh Giác. Thân này chỉ có thể có được khi Bồ Tát rốt ráo đủ mười danh hiệu!
Ta có thể hiểu, các quả vị từ Thiện Huệ Địa đến Pháp vân Địa và thành Phật hay Đẳng Giác, Diệu Giác và Phật quả, là sự chuyển biến của công hạnh. Giống như quá trình từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn. Cũng một mặt trời đó, cũng trong thái dương hệ này. Nhưng, đây kia thấy khác! Sự sai khác trong cái thấy, sức ảnh hưởng từ mặt trời, v.v... chẳng phải mặt trời có sai khác!
Quá trình chuyển đổi từ Bình Đẳng, Đẳng, Vô Đẳng Đẳng, Vô Thượng Đẳng và Vô Thượng Chánh Đẳng. Được kinh ví như sự chuyển biến giữa sữa, lạc, tô và đề hồ! Bốn thứ trên, tuy tánh chất, mùi vị, màu sắc, công dụng khác nhau, nhưng đều bắt nguồn từ nguyên liệu ban đầu đó là sữa... Do quá trình gia công, chế biến mà sau đó mỗi thứ có công dụng riêng! Đạo Phật cũng như vậy, nó bắt nguồn từ hữu tình. Khi hữu tình mê, tri và giác trở nên lầm lỗi gọi là “phàm ngu vô trí . Đến khi hữu tình được ánh sáng Phật pháp soi rọi, như người mù bỗng dưng được sáng, như hết đêm đến ngày “gọi là giác ngộ”, cũng thế giới này, cũng tâm thức này, cũng ngũ ấm này, cũng tri giác này. Nhưng tất cả đều sáng, tất cả đều chân, tất cả đều thực!
Đạo Phật là Chân Đạo, đạo Phật là Minh Đạo, đạo Phật là Trí Đạo! Đạo Phật lấy chân lý làm ngọn đuốc soi sáng cho những người có mắt, để rồi những người có mắt kia, với ánh sáng chân lí, mọi thứ sẽ hiện ra đúng với bản chơn của nó trong một thế giới đảo điên vì tâm thức hư vọng! Một vài kiến giải cơ yếu về những đạo quả thâm u! Hy vọng, nó sẽ giúp các bạn có được những câu trả lời tuyệt vời. (24-11-2018)
Các bạn! ... Lúc gởi câu hỏi đi, mình cứ ngỡ rằng, lần này gồm toàn câu hỏi khó, sẽ rất ít người trả lời thành công cả bốn câu. Nhưng, thực tế lại khác, có đến 99% HĐ trả lời đạt yêu cầu. Chẳng những trả lời đúng phần kiến thức, về cách viết các bạn cũng có những tiến bộ rất xa so với hồi đầu năm. Đây là kết quả rất đáng khích lệ đối với việc tu tập của HĐ chúng ta trong một năm qua! Bốn câu hỏi vừa rồi, có một nội dung tuy chiếm vị trí khiêm tốn nhưng lại rất quan trọng, đó là, “sự khác biệt giữa ba thừa và Nhất thừa”. Mình rất mong các bạn chú ý đến nội dung này!
Giữa ba thừa và Nhất thừa rất khác biệt về mục tiêu, lí tưởng tu tập. Nếu như mục tiêu tu tập của ba thừa là nhằm giải quyết khổ phiền não của tự thân (tự độ) thì, mục tiêu tu tập của Nhất thừa là hướng đến giải quyết khổ phiền não của tất cả chúng sanh (độ tha). Chính sự khác biệt cốt lõi về lí tưởng nêu trên, từ đó thái độ, động cơ, phương pháp tu tập giữa ba thừa và Nhất thừa cũng sẽ không giống nhau. Các bạn chú ý quan sát các khác biệt này, có thể hình dung ra đoạn đường mình sắp đi là như thế nào!
Theo kế hoạch, Trò Chơi Trí Tuệ thứ 12 là Trò Chơi Trí Tuệ cuối cùng của năm 2018. HĐ nào có thắc mắc các câu hỏi, hoặc ý kiến đóng góp về phương pháp tu tập. Trong buổi sinh hoạt tuần này, chúng ta sẽ nêu lên để cùng nhau thảo luận!
Hầu như mọi người đều trả lời đúng và viết hay, bài nào cũng là bài tiêu biểu. Nếu khách quan hơn, thì phải nói rằng: “Tất cả HĐ chúng ta đều xứng đáng là những bông hoa tiêu biểu!” nên mình sẽ không chuyển các trả lời đến HĐ... (27-11-2018; 05:50)
(Tham khảo) CẢM NHẬN TCTT 2018/12.2− ... “Đạo Quả... Phật...”
Các bạn! ... Mình không tính gởi các câu trả lời lần này. Nhưng khi đọc đến bài viết của Tịnh Hiền, mình phải đọc đi đọc lại đến mấy lần! Bài viết theo mình là “đủ sức thuyết phục”! Vì thế, nếu đem cất vào “tàng thư” thì rất uổng phí! Suy nghĩ như thế, mình quyết định chỉnh sửa một chút cho tròn trịa hơn, và gởi đến mọi người để làm tài liệu tham khảo. Hy vọng, bài viết sẽ giúp các bạn có cái nhìn thấu đáo về các câu trả lời! (29-11-2018)
- Cảm Nhận_TCTT 2018/12.2−... “Đạo Quả Trong Phật đạo” (Lý Anh Lạc).
Kính Thầy! Con xin trả lời các câu hỏi như sau:
- Trả lời câu 1: Thưa Thầy! Trong bốn đạo quả trên, Kiến Bình Đẳng và Đẳng Tâm thuộc đạo quả Ba Thừa. Vô Đẳng Đẳng Trí và Vô Thượng Đẳng Huệ thuộc đạo quả Nhất Thừa.
− Học Ba Thừa để giải quyết trói buộc, phiền não, lậu hoặc của tự thân. Chung quy là học để thay đổi nhận thức cơ bản, dẫn đến làm sạch thấy nghe hư vọng và tâm thức hư vọng. Gọi là Bình Đẳng Kiến và Đẳng Tâm...
− Học Nhất Thừa để giải quyết trói buộc, phiền não cho người. Gọi là học các Giải Thoát Môn và các Tam Muội Môn. Giai đoạn này, thiên về Trí và Huệ. Vì thế mới có đạo quả Vô Đẳng Đẳng Trí và Vô Thượng Đẳng Huệ...
- Trả lời câu 2: Thưa Thầy! Vì chúng sanh luân chuyển theo nghiệp (nghiệp nhân, nghiệp duyên, nghiệp quả, nghiệp báo), nên tâm thức niệm niệm (sanh pháp, sanh tâm...) không ngừng.
Một khi tâm thức không còn sanh khởi (do thấy được bổn tâm) thì nghiệp dừng, nghiệp dừng nên chúng sinh tánh “chết queo”. Kinh gọi là Đoạn Dứt Sanh Tử của một chúng sinh. Cho nên, một người tu hành khi thành tựu đến viên mãn quả vị thứ hai (Đẳng Tâm) thì chấm dứt Phần Đoạn Sanh Tử. Vị ấy vĩnh viễn không còn là một chúng sanh, Phật thường ví dụ trường hợp này như: “Cây ta la đã bị chặt đầu, không còn tái sanh trở lại” .
- Trả lời câu 3: Thưa Thầy! Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử là sanh tử theo nguyện để học trí tuệ thuộc Đạo Đế. Và đạo quả thứ ba (Vô Đẳng Đẳng Trí) là đạo quả tương đương Đạo Đế. Cho nên, đạo quả thứ ba là đạo quả hình thành Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử. Và khi đã viên mãn Đạo Đế, hoặc bước sang đạo quả thứ tư thì Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử chấm dứt.
Vì sao như vậy? Vì viên mãn Đạo Đế thì tâm và trí của vị này không khác Phật, có nghĩa về cơ bản: “Cái gì Phật chứng vị này chứng, cái gì Phật biết vị này biết, cái gì Phật thấy vị này thấy (như trường hợp Phật tuyên thuyết về Đại Đức Ca Diếp trước đại chúng)”. Xét về phương diện “tâm và trí” thì, vị này không còn điều gì để chứng, để đắc Tâm và trí không còn sanh diệt (do không còn thay đổi nhãn lực), nên Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử cũng chấm dứt theo.
- Trả lời câu 4: Thưa Thầy!
− Về đạo quả: Trong 11 loại trí thì Hậu Biên Thân thuộc Đạo Tướng Trí, và Tối Hậu Thân thuộc Nhất Thiết Chủng Trí. Cho nên, giai đoạn: Từ “Vô Thượng Đẳng Huệ, vị ấy nhiều đời làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, thuộc Hậu Biên Thân” (Trích Email của LT) đến “Đời rốt sau đủ mười danh hiệu như chư Phật quá khứ, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác! Thuộc Tối Hậu Thân...” (Trích Email của LT)
− Về giáo hoá: Hậu Biên Thân và Tối Hậu Thân có năng lực giúp người thành tựu bốn đạo quả trên. Cho nên, chữ “Thân” trong Hậu Biên Thân và Tối Hậu Thân nhằm nói đến trí tuệ (pháp thân), hơn là mô tả hình tướng bên ngoài (thân tứ đại...).
Có khi Tối Hậu Thân còn gọi là “Sắc Thường Trụ”. Chữ sắc ở đây ngầm ám chỉ trí tuệ thường trụ nên “sắc thân công đức” do chúng sanh làm nên cũng thường trụ, kinh gọi là “Chủng Loại Câu Sanh Vô Hành Tác Ý Sinh Thân”.
Kính Thầy chỉ dạy thêm. Con kính lễ Thầy ba lạy! Con.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






