Kinh Thập Thiện

 0
Kinh Thập Thiện

Tôi nghe như vầy;[[1]] Một thời kia đức Phật ở chốn Long Cung Sa Kiệt La,[[2]] cùng với tám nghìn chúng Đại Tỳ Khưu[[3]] và ba vạn hai nghìn vị Đại Bồ Tát.[[4]]

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long Vương rằng:

“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.

  • Này Long Vương! Ông có thấy những vị đương trong hội này cũng như những hình sắc của mọi loài trong đại hải này, mỗi mỗi không đồng nhau không?

Những hình sắc ấy hết thảy do nghiệp thiện và bất thiện của nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý đều do tâm mà tạo ra.

Song, TÂM không có hình sắc, không thể nào nhận thấy được. Và, đó chỉ là sự không thật của mọi pháp hợp tập gây nên, rốt ráo không có chủ, không có ta, cũng không có cái gì của ta.

Tuy đều theo nghiệp, hiện ra không đồng, mà trong ấy, thực không có tác giả, nên hết thảy các pháp tự tánh như huyễn, đều không thể nghĩ, bàn được.

Bậc trí giả biết thế rồi, nên tu thiện nghiệp nhờ vậy Uẩn,[[5]] Xứ,[[6]] Giới[[7]]... Đều được đoan chánh; Người trông không chán.

  • Này Long Vương! Ông xem thân của Phật, từ trăm, nghìn, ức phúc đức sinh ra, mọi tướng trang nghiêm, ánh sáng rực rỡ, tỏa khắp đại chúng; dù có đến vô lượng ức vị Tự Tại Phạm Vương cũng không thể hiển hiện như thế được. Những ai chiêm ngưỡng thân của Như Lai không ai là chẳng lóa mắt.

Ông lại xem thân của các vị Đại Bồ Tát đây, diệu sắc nghiêm tịnh, hết thảy đều do tu tập phúc đức thiện nghiệp sinh ra.

Lại, các hàng Thiên, Long bát bộ,[[8]]... có uy thế lớn cũng bởi phúc đức thiện nghiệp sinh ra.

Và, ngay như trong đại hải này có những chúng sinh hình sắc thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ cũng đều do những tưởng niệm nơi tự tâm, tạo ra những nghiệp bất thiện của thân, miệng, ý, nên tùy nghiệp, họ tự chịu lấy báo thân như thế.

  • Nay ông thường nên tu, học như thế và cũng nên làm sao cho chúng sinh hiểu thấu nhân quả, tu tập thiện nghiệp như thế. Được thế, nhân chỗ chánh kiến bất động ấy ông sẽ không rơi vào đoạn kiến, thường kiến.[[9]] Đối với những ruộng phước[[10]] các ông hoan hỷ, cung kính, cúng dường, nên các ông cũng được Nhân, Thiên tôn kính, cúng dường.
  • Long Vương nên biết! Bồ Tát có một pháp dứt được hết thảy khổ não trong mọi đường ác.

Một pháp ấy là gì?

− Nghĩa là ngày đêm thường nhớ, nghĩ, quán sát thiện pháp, làm cho những thiện pháp ấy, niệm niệm tăng trưởng và không cho một hào ly bất thiện xen lẫn vào. Tức là hay khiến mọi ác pháp dứt hẳn, thiện pháp viên mãn, thường được thân cận chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng.  

Thiện pháp ấy là gì?

− Nghĩa là, thân của Nhân, Thiên, đạo Bồ Đề của hàng Thanh Văn, đạo Bồ Đề của hàng Độc Giác và đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, đều y vào pháp ấy làm căn bản mà được thành tựu, nên gọi là thiện pháp. Và, thiện pháp ấy tức là mười thiện nghiệp đạo.    

Những gì là mười?

− Nghĩa là, xa hẳn những nghiệp: sát sinh; trộm cắp; tà hạnh; nói dối; hai lưỡi; ác khẩu; nói khéo (thêu dệt); tham dục; giận dữ và tà kiến.

1.1.  CÔNG ĐỨC XA LÌA SỰ SÁT SANH

  • Này Long Vương! Nếu tránh nghiệp sát sinh, liền thành tựu được mười pháp lìa xa phiền não. Những gì là mười?

− Một là, phổ thí đức vô úy đối với mọi chúng sinh.

− Hai là, thường khởi tâm đại từ đối với chúng sinh.

− Ba là, dứt hẳn hết thảy tập khí[[11]] giận dữ.

− Bốn là, thân thường không có tật bệnh.

− Năm là, thọ mệnh lâu dài.

− Sáu là, thường được hàng Phi nhân[[12]] thủ hộ.

− Bảy là, thường không ác mộng, thức, ngủ an vui.

− Tám là, diệt trừ oán kết, mọi oán tự giải.

− Chín là, không sợ sa vào đường ác.

− Mười là, sau khi mệnh hết được sinh lên cõi trời.

Ấy là mười pháp. Nếu đem mười pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thọ mệnh sẽ tùy tâm tự tại, vị lai thành quả vị Phật.

1.2.  CÔNG ĐỨC XA LÌA TRỘM CẮP

  • Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa nghiệp trộm cắp, liền được mười pháp có thể bảo đảm, tin tưởng. Những gì là mười?

− Một là, của cải đầy dẫy, vua, giặc, nước, lửa và con hư không thể làm tan mất được.

− Hai là, nhiều người yêu mến.

− Ba là, người không lừa gạt.

− Bốn là, mười phương khen ngợi.

− Năm là, không lo tổn hại.

− Sáu là, tiếng lành đồn xa.

− Bảy là, ở chốn đông người không sợ.

− Tám là, của cải, thọ mệnh, hình sắc, sức lực, yên vui, biện tài đầy đủ không thiếu.

− Chín là, thường sẵn lòng bố thí.

− Mười là, sau khi mệnh hết được sinh lên cõi trời.

Ấy là mười pháp. Nếu đem mười pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vị lai thành Phật chứng được trí Thanh tịnh Đại Bồ Đề.

1.3.  CÔNG ĐỨC XA LÌA TÀ HẠNH (TÀ DÂM)

  • Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa nghiệp tà hạnh, liền được bốn pháp mà bậc trí giả khen ngợi. Những gì là bốn?

− Một là, mọi căn điều hòa, thuận lợi.

− Hai là, xa hẳn sự xôn xao.

− Ba là, được đời khen ngợi.

− Bốn là, vợ không bị ai xâm phạm.

Ấy là bốn pháp. Nếu đem bốn pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được Đại Trượng Phu ẩn mật tàng tướng, vị lai thành Phật.

1.4.  CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP VỌNG NGỮ

Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa nghiệp nói dối, liền được tám pháp mà chư Thiên khen ngợi.  Những gì là tám?

− Một là, miệng thường thơm, sạch như hoa sen.

− Hai là, được mọi người đời tín phục.

− Ba là, nói lời thành chứng; Nhân, Thiên kính ái.

− Bốn là, thường đem lời dịu dàng, an ủi chúng sinh.

− Năm là, được ý vui thù thắng,[[13]] ba nghiệp thanh tịnh.

− Sáu là, nói không lầm lẫn, tâm thường hoan hỷ.

− Bảy là, nói lời tôn trọng; Nhân, Thiên vâng làm.

− Tám là, trí tuệ thù thắng, không ai chế phục.

Ấy là tám pháp. Nếu đem tám pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được chân thiệt ngữ của Như Lai, vị lai thành Phật.

1.5.  CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP HAI LƯỠI

  • Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa nghiệp hai lưỡi, liền được năm pháp không thể phá hoại. Những gì là năm?

− Một là, được thân bất hoại, không gì có thể hoại được.

− Hai là, được quyến thuộc bất hoại, không gì có thể phá được.

− Ba là, được lòng tin bất hoại, thuận theo bản nghiệp.

− Bốn là, được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố.

− Năm là, được thiện tri thức bất hoại, không bị lừa dối.

Ấy là năm pháp. Nếu đem năm pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được quyến thuộc chân chánh, các ma ngoại đạo không thể làm tan hoại được, vị lai thành Phật.

1.6.  CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP ÁC KHẨU

Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa nghiệp ác khẩu, liền thành tựu được tám thứ tịnh nghiệp. Những gì là tám?

− Một là, lời nói không trái pháp độ.

− Hai là, lời nói đều lợi ích.

− Ba là, lời nói quyết định hợp lý.

− Bốn là, lời nói đẹp đẽ.

− Năm là, lời nói ra người ta thừa lãnh được.

− Sáu là, lời nói ra người ta tin dùng.

− Bảy là, lời nói không thể chê trách được.

− Tám là, lời nói ra người ta đều ưa thích.

Ấy là tám pháp. Nếu đem tám pháp ấy, hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được đầy đủ Phạm âm thanh tướng của Như Lai, vị lai thành Phật.

1.7.  CÔNG ĐỨC XA LÌA Ỷ NGỮ (nói thêu dệt)

Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa nghiệp nói khéo (thêu đệt), liền thành tựu được ba thứ quyết định. Những gì là ba?

− Một là, quyết định được bậc trí nhân yêu mến.

− Hai là, quyết định thường dùng trí tuệ như thực vấn đáp.

− Ba là, quyết định đối với Nhân, Thiên uy đức tối thắng, không có dối trá.

Ấy là ba pháp. Nếu đem ba pháp ấy, hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được Như Lai thọ ký, chẳng có luống dối, vị lai thành Phật.

1.8.  CÔNG ĐỨC XA LÌA THAM DỤC

Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa tham dục, liền thành tựu được năm thứ tự tại. Những gì là năm?

− Một là, ba nghiệp tự tại, mọi căn đầy đủ.

− Hai là, của cải tự tại, hết thảy oán tặc không hề cướp đoạt.

− Ba là, phúc đức tự tại, tùy tâm muốn gì, vật dụng đều đủ.

− Bốn là, vương vị tự tại, đồ vật quý lạ đều được phụng hiến.

− Năm là, những vật được dùng, thù thắng gấp trăm lần bản tâm mong cầu, vì thời trước không bỏn xẻn, ganh ghét.

Ấy là năm pháp. Nếu đem năm pháp ấy, hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác, ba cõi[[14]] đặc biệt tôn trọng và đều cung kính, cúng dường, vị lai thành Phật.

1.9.  CÔNG ĐỨC XA LÌA SÂN NHUẾ (sân hận)

Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa giận dữ, liền được tám thứ tâm pháp hỷ duyệt.   Những gì là tám?

− Một là, không có tâm làm tổn não ai.

− Hai là, không có tâm giận dữ.

− Ba là, không có tâm gây sự kiện cáo.

− Bốn là, có tâm nhu hòa, ngay thực.

− Năm là, được từ tâm của bậc Thánh giả.

− Sáu là, tâm thường làm việc lợi ích, an vui cho chúng sinh.

− Bảy là, thân tướng đoan nghiêm, chúng đều tôn kính.

− Tám là, vì sự hòa nhẫn, chóng sinh lên thế giới Phạm thiên.

Ấy là tám pháp. Nếu đem tám pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được tâm vô ngại của Phật, người trông không chán, vị lai thành Phật.

1.10.  CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP TÀ KIẾN

Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa tà kiến, liền thành tựu được mười pháp công đức.  Những gì là mười?

− Một là, được ý vui chân thiện và bạn bè chân thiện.

− Hai là, thâm tín nhân quả, thà bỏ thân mệnh trọn không làm ác.

− Ba là, chỉ quy y Phật, không quy y các Thiên thần.

− Bốn là, lòng ngay, thấy chánh, lìa hẳn hết thảy lưới ngờ: tốt, xấu.

− Năm là, thường sinh trong cõi Nhân, Thiên, không sa đường ác.

− Sáu là, vô lượng phúc tuệ, dần dần thêm hơn.

− Bảy là, lìa hẳn tà đạo, tu hành Thánh đạo.

− Tám là, không khởi thân kiến,[[15]] bỏ mọi nghiệp ác.

− Chín là, trụ vào kiến giải vô ngại.

− Mười là, không sa vào những nạn xứ.

Ấy là mười pháp. Nếu đem mười pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mau chứng hết thảy pháp của Phật, thành tựu thần thông tự tại, vị lai thành Phật.

  • Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Long Vương rằng:

Nếu có vị Bồ Tát nào y vào thiện nghiệp ấy, trong khi tu đạo:

Xa lìa nghiệp sát hại, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, được sống lâu không chết non và không bị hết thảy oán tặc làm tổn hại.

Xa lìa nghiệp không cho mà lấy, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, được sự tối thắng, không ai sánh kịp và đều hay tập hợp đầy đủ những pháp tạng của chư Phật.

Xa lìa nghiệp không đúng Phạm hạnh, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, mà mình trinh thuận, mẹ và vợ, con, không ai đem lòng dục mà xâm phạm.

Xa lìa lời nói dối trá, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, tránh mọi hủy báng, thu giữ chánh pháp, như lời thệ nguyện của mình, việc làm kết quả.

Xa lìa lời ly gián (hai lưỡi), chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, quyến thuộc hòa mục, đồng vui một chí, thường không trái chống.

Xa lìa lời thô ác, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, hết thảy chúng hội, hoan hỷ quy y và lời nói ra ai cũng đều tín thọ, không chút trái nghịch.

Xa lìa lời nói vô nghĩa, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, lời nói không hư thiết, người đều kính thọ, hay dùng thiện phương tiện, dứt mọi ngờ vực.

Xa lìa tâm tham cầu, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, hết thảy vật sở hữu, đều đem ban cấp, tín giải kiên cố, đủ uy lực lớn.

Xa lìa tâm bực tức, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, chóng tự thành tựu tâm trí vô ngại, mọi căn nghiêm trang, tốt đẹp, ai thấy cũng đều kính ái.

Xa lìa tâm tà đạo, chăm làm bố thí, thường giầu của báu, không ai xâm đoạt, thường sinh vào nhà kính tín chánh kiến, thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng và thường không quên mất tâm Đại Bồ Đề.

Ấy là bậc Đại Sĩ trong khi tu đạo Bồ Tát, làm mười nghiệp thiện, dùng bố thí trang nghiêm, được lợi ích lớn.”

Như vậy Long Vương! Tóm lại mà nói, thực hành mười thiện đạo;

− Dùng trì giới trang nghiêm, hay sinh hết thảy nghĩa lợi của Phật Pháp và đầy đủ nguyện lớn.

− Dùng kham nhẫn trang nghiêm, được viên âm của Phật, đủ mọi tướng tốt.

− Dùng tinh tiến trang nghiêm hay phá ma oán, nhập Pháp tạng của Phật.

− Dùng thiền định trang nghiêm, hay sinh niệm, tuệ, tàm quý, khinh an.[[16]]

− Dùng trí tuệ trang nghiêm, hay dứt hết thảy phân biệt vọng kiến.

− Lòng từ trang nghiêm, đối với chúng sinh không khởi não hại.

− Lòng bi trang nghiêm, thương mọi chúng sinh thường không chán bỏ.

− Lòng hỷ trang nghiêm, thấy người tu thiện, tâm không hiềm ghét.

− Lòng xả trang nghiêm, đối cảnh thuận, nghịch, tâm không thương, giận.

Bốn nhiếp pháp[[17]] trang nghiêm, thường siêng nhiếp hóa hết thảy chúng sinh.

Niệm xứ trang nghiêm, khéo hay tu tập bốn quán niệm xứ.[[18]]

Chánh cần[[19]] trang nghiêm, đều hay dứt trừ hết thảy bất thiện pháp, thành hết thảy thiện pháp.

Thần túc[[20]] trang nghiêm, thường khiến thân tâm vui vẻ, nhẹ nhàng.

Năm căn[[21]] trang nghiêm, thâm tín kiên cố, tinh cần không biếng, thường không mê vọng, vắng lặng điều thuận, dứt mọi phiền não.

Năm lực[[22]] trang nghiêm, mọi oán diệt hết, không gì hoại được.

Giác chi[[23]] trang nghiêm, thường khéo giác ngộ hết thảy mọi pháp.

Chánh đạo[[24]] trang nghiêm, được chánh trí tuệ, thường hiện ở trước.

− CHỈ trang nghiêm nên gột bỏ được hết thảy kết sử.

− QUÁN trang nghiêm nên hay như thực biết được tự tính của mọi pháp.

− PHƯƠNG TIỆN trang nghiêm, chóng thành đầy đủ sự vui vô vi.

Long Vương nên biết! “Mười nghiệp thiện ấy hay khiến mười LỰC,[[25]] bốn pháp VÔ ÚY,[[26]] mười tám pháp BẤT CỘNG[[27]] cùng hết thảy Phật Pháp đều được viên mãn. Vì thế, các ông nên siêng tu học”.

Này Long Vương! ví như hết thảy thành, ấp, làng, xóm, đều y vào đại địa mà được an trụ, hết thảy dược thảo, cỏ cây, rừng rú cũng y vào đại địa mà được sinh trưởng.

Mười thiện đạo ấy cũng lại như thế; Hết thảy Nhân, Thiên y vào đó mà an lập; hết thảy Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Đề, mọi hạnh Bồ Tát và hết thảy Phật Pháp, cùng y vào đại địa của mười thiện mà được thành tựu.

Đức Phật nói kinh này rồi, Sa Kiệt La Long Vương cùng toàn thể đại chúng hết thảy thế gian Thiên, Nhân, A Tu La... thảy đều hoan hỷ, tín thọ phụng

---

Phần chú giải

[[1]] Tôi nghe như vầy: Là lời Tôn Giả A Nan tự xưng. Ít lâu sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, chư vị Thánh Tăng nhóm họp lại để kết tập những lời Phật dạy. Tôn Giả A Nan được đề cử tụng Kinh tạng, do đó, đầu mỗi kinh đều có ghi câu “Tôi nghe như vầy” để chứng tín (theo lịch sử PG).

[[2]] Sa Kiệt La (Sàgara; Hán dịch là Hàm Hải): Biển nước mặn.

[[3]] Tỳ Khưu (Bhiksu; Hán dịch nghĩa là “Khất sĩ”): Nghĩa là người tu hành, trên cầu đạo của chư Phật để tu tỉnh, dưới đi xin ăn nơi quần chúng để tiện hóa độ. Tỳ Khưu có hai phái. Phái nam gọi là Tỳ Khưu. Phái nữ gọi là Tỳ Khưu ni (Bhiksuni).

[[4]] Bồ Tát (Bodhisattva; Gọi đủ là Bồ đề tát đỏa. Hán dịch là “Giác Hữu tình”): Nghĩa là những vị phát đại tâm cầu đạo Vô Thượng và giúp chúng sinh giác ngộ, thành tựu Vô thượng đạo.

[[5]] Uẩn (5 uẩn): Là (năm) thứ tích chứa phiền não làm người không giác ngộ; Gồm có: Sắc uẩn; Thọ uẩn; Tưởng uẩn; Hành uẩn và Thức uẩn!

[[6]] Xứ (12 Xứ): Gồm sáu Căn (Mắt “Nhãn”; Tai “Nhĩ”; Mũi “Tỷ”; Lưỡi “Thiệt”; Thân; Ý) và sáu Trần (Sắc; Thanh; Hương; Vị; Xúc; Pháp).

[[7]] Giới (18 Giới): Gồm sáu Căn, sáu Trần và thêm sáu Thức (Nhãn thức; Nhĩ thức; Tỷ thức; Thiệt thức; Thân thức và Ý thức) thành 18 Giới.

[[8]] Thiên, Long bát bộ: Là nói về tám bộ chúng thường tới nghe Phật thuyết pháp và hộ trì chính pháp mà mắt người không thể trông thấy được; Gồm: 1) Thiên (Deva: các vị trong cõi trời).   2) Long (Nàga: rồng là loài vua dưới nước).  3) Dạ Soa (Yaksa: quỷ thần bay trên không; cũng có chỗ gọi là Dược Soa).  4) Càn Thát Bà (Gandharva: dịch là Hương Ấm, là Nhạc Thần trong cung vua Đế Thích).  5) A Tu La (Asura: dịch là Phi Thiên, tức là một loại quỷ thần có phúc báo gần như trời...).  6) Ca Lâu La (Garuda: dịch là Kim Sí Điểu).  7) Khẩn Na La (Kimnara: dịch là Ca Thần cũng là vị Nhạc thần trong cung vua Đế Thích).  8) Ma Hầu La Già (Mahoraga: dịch là Đại Mãng Thần, tức là loài địa long vậy).

[[9]] Đoạn kiến; Thường kiến: Đây là hai thứ kiến giải của những con người thiên chấp.

    − Đoạn kiến là không tin nghiệp quả, cố chấp thân tâm con người chết đi là hết, không tục sinh nữa (dễ phóng tâm làm ác, không sợ hậu báo).

   − Thường kiến là cố chấp thân tâm con người thường trụ không gián đoạn mặc dầu trải qua thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai (tạo nghiệp thiện, ác cho là không quan hệ gì đến sự khổ vui của thân này).

[[10]] ... ruộng phước (phước điền): Là nơi gieo trồng mầm phước đức. Ruộng phước phân tích có 8; Tóm lại thì có 3 thứ:  1) Kính điền: Cung kính chư Phật, Thánh nhân, chư Tăng.  2) Ân điền: Hiếu thuận với những người có ân như: cha mẹ, Hòa Thượng, A Xà Lê...  3) Bi điền: Thương xót, cứu giúp chúng sinh cùng những người yếu đau…

[[11]] Tập khí: Là thói quen vô thức, là cái hơi hướng do sự huân tập mà thành!

[[12]] Phi nhân: Là chỉ vào các hàng quỷ thần.

[[13]] Thù thắng: Là chỉ cho những sự siêu tuyệt, mà đời (thế gian) khó có.

[[14]]Tam Giới (ba cõi, 3 cảnh giới của tâm): Gồm cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc!

[[15]] Thân kiến (Satkàyadrsti): Thấy biết lệch lạc (tà kiến) đối với thân, chấp là thực ngã (có ngã).

[[16]] Niệm, tuệ, tàm quý, khinh an: Đây là nói về những tâm sở thiện, phát hiện trong khi nhập định (trạng thái tâm thanh tịnh)…

[[17]] Bốn nhiếp pháp: Bốn phương pháp nhiếp phục, hóa độ chúng sinh, gồm có bố thí; ái ngữ; lợi hànhđồng sự

[[18]] Bốn niệm xứ: Bốn pháp quán niệm gồm quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp

[[19]] Chánh cần: Gồm 4 pháp, siêng năng hành trì một cách chân chánh:    1)Điều ác đã sinh, làm cho dứt hẳn. 2) Điều ác chưa sinh, làm cho không thể sinh được. 3) Điều thiện chưa sinh làm cho chóng sinh. 4) Điều thiện đã sinh làm cho tăng trưởng…

[[20]] Thần túc (còn gọi là 4 như ý túc): Là 4 pháp thực hành làm cho sự tu tập được đầy đủ như ý (Dục như ý túc; Tinh tấn như ý túc; Nhất tâm như ý túc; Quán (niệm) như Ý túc).

[[21]] Năm căn: Tín; Tinh tấn; Niệm; Định và Tuệ…

[[22]] Năm lực: Tín lực; Tinh tấn lực; Niệm lực; Định lực và Tuệ lực…

[[23]] Giác chi (là 7 chi giác ngộ): Trạch pháp giác chi; Niệm giác chi; Tinh tấn giác chi; Hỷ giác chi; Khinh an giác chi; Định giác chi và Xả giác chi…

[[24]] Chánh đạo (là 8 Chánh đạo): Chánh kiến; Chánh tư duy; Chánh ngữ; Chánh nghiệp; Chánh mạng; Chánh tinh tấn; Chánh niệm và Chánh định.

[[25]] Mười lực: Đây là 10 lực của Như Lai gồm 1)Trí lực biết chỗ giác ngộ, hay chẳng phải chỗ giác ngộ.   2)Trí lực biết nhân quả nghiệp báo ba đời của chúng sinh.  3)Trí lực biết mọi phép thiền giải thoát tam muội.  4) Trí lực biết mọi pháp thiền định và 8 giải thoát tam muội.  5)Trí lực biết mọi tri giải.  6)Trí lực biết mọi cảnh giới.  7)Trí lực biết được chỗ sẽ đến của mọi đường (đạo).  8)Trí lực biết dùng thiên nhãn không chướng ngại.   9)Trí lực biết túc mệnh vô lậu.  10)Trí lực biết dứt hẳn tập khí…

[[26]] Bốn pháp Vô úy: Là bốn pháp nói về tâm hóa độ tha nhân không khiếp sợ. Vô úy có hai: Vô úy của Bồ Tát và Vô úy của Phật:

  1. Vô úy của Phật: 1)Nhất thiết trí vô úy.     2)Lậu tận vô úy.   3)Chướng đạo vô úy.  4)Tận khổ đạo vô úy!
  2. Vô úy của Bồ Tát: 1)Ghi nhớ không quên nên thuyết pháp không sợ. 2)Biết pháp dược và biết căn tính chúng sinh nên thuyết pháp không sợ. 3)Khéo hay vấn đáp nên thuyết pháp không sợ. 4)Hay ngắt dứt nỗi ngờ của chúng sinh nên thuyết pháp không sợ!

[[27]] Mười tám pháp Bất Cộng: Vì không cộng đồng với các hàng Nhị Thừa và Bồ Tát, nên 18 công đức này chỉ có ở nơi Phật nên gọi là “bất cộng”:

   1)Thân không lầm.   2)Miệng không lầm.   3)Niệm không lầm.   4)Không có tưởng khác.   5)Không có cái gì là không định tâm.   6)Không có cái gì là không biết xả.    7)Lòng mong muốn độ sinh không diệt.   8)Tinh tiến không diệt.   9) Niệm không diệt.   10)Tuệ không diệt.   11)Giải thoát không diệt.   12)Giải thoát tri kiến không diệt.     13)Hết thảy nghiệp thân làm theo trí tuệ.    14)Hết thảy nghiệp khẩu làm theo trí tuệ.     15)Hết thảy nghiệp ý làm theo trí tuệ.   16)Trí tuệ biết được đời quá khứ không bị chướng ngại.    17)Trí tuệ biết được đời vị lai không bị chướng ngại.    18)Trí tuệ biết được đời hiện tại không bị chướng ngại.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 1
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG