Nhận Biết Một Người Đã Giác Ngộ, Năm Hạnh Tu Hành Từ Thấp Đến Cao, Sự Khác Biệt Giữa Huyễn Trí và Thật Trí?

 0
Nhận Biết Một Người Đã Giác Ngộ, Năm Hạnh Tu Hành Từ Thấp Đến Cao, Sự Khác Biệt Giữa Huyễn Trí và Thật Trí?

Hỏi: Một người Giác Ngộ, chân thật “thấy tâm này bản lai tự tịnh”, trong đời sống hằng ngày, lấy gì để hộ trì?

Đáp: Người Giác Ngộ bản tâm thật sự, trong đời sống, vị này lấy cái không hộ trì để hộ trì”.

Hỏi: Như thế nào gọi là lấy cái không hộ trì để hộ trì?

Đáp: Tất cả các pháp hộ trì mà người tu hành biết được, đều là pháp tạo tác (làm ra), thuộc về thế gian pháp. Những pháp như vậy, chỉ có tác dụng giữ gìn không cho tán tâm, ngăn lỗi ác của thân khẩu ý.

Vì thế không thể dùng những pháp hộ trì này cho người đã Giác Ngộ. Người Giác Ngộ chân thật tự biết cách hộ trì chỗ có được của mình. Phép hộ trì này trong Phật Đạo gọi là “Xuất Thế Gian Xa Ma Tha(Tịnh Giải Thoát). Xuất thế Gian Xa Ma Tha là lấy cái không hộ trì để hộ trì.

Hỏi: Làm thế nào để biết được một người đã Giác Ngộ?

Đáp: Muốn biết được một người có Giác Ngộ chân thật hay không, chỉ có ba hạng người có thể biết rõ.

  • Một là Bậc Đạo Sư của người ấy.
  • Hai là người có Giác Ngộ sâu hơn.
  • Ba là chính bản thân người đó.

Tuy nhiên, có một số dấu hiệu mà người tinh ý có thể nhận ra và tạm đánh giá đây là một vị đã Giác Ngộ thật sự:

  • Một, nhìn vào phong thái của người đó trước kia và hôm nay (sau khi Giác Ngộ) thay đổi như thế nào.
  • Hai, trong hành động và lời nói của người thật sự Giác Ngộ, không có (hoặc rất ít) bóng dáng của ngã, luôn luôn thể hiện sự nhân hậu.
  • Ba, khi nói chuyện về đạo, người này lấy chỗ thực chứng để trình bày, nên văn tự ngắn gọn, không suy luận dài dòng.
  • Bốn, lời nói thường không có mùi phiền não”, vì thế hay làm cho chúng hòa hiệp.
  • Năm, chán ghét tham gia chuyện thế gian, trừ trường hợp bất đắc dĩ.
  • Sáu, ham ưa vắng lặng, thường độc cư thiền định.
  • Bảy, không có tâm tranh giành, người đối diện cảm nhận được an lạc, thích gần gũi.
  • Tám, chỉ thích văn tự, ngữ ngôn vô lậu.
  • Chín, ham ưa đọc tụng kinh luận của Phật và Bồ Tát.
  • Mười, khi đọc kinh luận chính thống của Phật và Bồ Tát, vị này thấy phấn khởi trong lòng, cảm giác Phật và Bồ Tát tuyên thuyết điều này cho riêng mình.
  • Mười một, dễ phát hiện ra các sai lầm trong cách giảng nói của người chưa Giác Ngộ.
  • Mười hai, ham ưa văn hóa vô lậu, nên thường tán thán người được pháp lành, dần dần từ bỏ thói quen nhân ngã, khen mình chê người.
  • Mười ba, thường biết ơn, nhớ ơn Phật, Thiện Tri Thức.
  • Mười bốn, tập khí chấp nhất, xả dần cho đến mất hẳn.

Nói chung, có vô số pháp lành xuất sanh từ một vị đã Giác Ngộ chân thật. Nếu một người tinh ý có thể căn cứ vào những đức tính nói trên, để nhận định đây có phải là một vị đã Giác Ngộ thật sự hay chưa.

Hỏi: Một A Na Hàm, có được gọi là một người đã Giác Ngộ chân thật hay không? Như thế nào, đích thực là một A Na Hàm?

Đáp: Trong tứ quả thánh, A Na Hàm là quả vị thứ ba, gọi là Bất Lai, quả vị này đã dứt năm kiết sử, đó là thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham, sân. Tuy dứt được năm kiết sử nhưng đạo quả của vị này do Giác (nghĩ suy) mà được, chứ không phải tự được, tức là đạo quả của một A Na Hàm thành tựu từ nghĩ suy, nên gọi là sắc cứu cánh thiên”.

Muốn Giác Ngộ chân thật, A Na Hàm phải một lần vượt qua rào cản của Giác (tư duy mới biết thế nào là thanh tịnh) để một lần Ngộ (chứng kiến) bổn tâm thanh tịnh, chỗ Ngộ chân thật này, Phật Đạo gọi là Chứng Thiệt Tế. Vì A Na Hàm sức Giác rất mạnh nên vị này không thể thối lui trở lại các quả vị trước đó, gọi là Bất Lai. Nếu nói cho đúng, tuy A Na Hàm đã vào dòng thánh, đã mọc mầm thánh chủng tánh”, nhưng chưa thể gọi là Giác Ngộ chân thật.

Hỏi: Một người Giác Ngộ chân thật, một lần thực chứng, thấy được bổn tâm thanh tịnh. Vị này có lúc nào đó quên chỗ chứng của mình, để rơi vào bất giác hay không?

Đáp: Nếu chưa viên mãn Diệt Đế, tức mới thành tựu tâm vô ngã (vô sanh) mà chưa thành tựu phần còn lại là pháp vô ngã (vô sanh pháp) thì trong bất chợt nào đó, vị này có thể bất giác. Nhưng do công đức của Giác Ngộ nên vị này mau thức tỉnh, không bị chìm đắm lâu dài trong bất giác như một phàm phu. Giống như người giàu có, trong cuộc đời của họ, có lúc nằm mơ thấy mình nghèo đói, khi thức dậy, sự giàu có của họ không mất.

Muốn thành tựu Diệt Đế:

- Vị này thường lấy cái “không hộ trì để hộ trì”, đồng thời thường hay lặng lẽ quan sát tánh tướng của các pháp. Lặng lẽ quan sát tánh tướng của các pháp, gọi là Xuất Thế Gian Tỳ Bà Xá Na (Huệ Quán).

- Lặng lẽ quan sát như thế, mà trong thẳm sâu của lòng mình, không kết luận rằng pháp đó là đúng hay Nhờ lặng lẽ quan sát mà không kết luận như vậy, vị này đủ duyên lành sẽ thấy được pháp vô ngã, thân chứng bất nhị pháp môn và dần dần thể nhập Bất Động Giải Thoát, hoàn thành mục tiêu cuối cùng của Phạm Hạnh.

Vì sao như vậy?

Vì kết luận pháp là đúng hay sai, sẽ sinh ngã, sinh pháp, sinh đối đãi. Ngã sinh, pháp sinh, đối đãi sinh, giống như thêm dầu vào lửa, hành động này không thể dập tắt lửa pháp. Cho nên trong kinh, Phật thường hay ví Niết Bàn là củi hết, lửa tắt.

Hỏi: Vì sao chứng Diệt Đế gọi là hoàn thành mục tiêu cuối cùng của Phạm Hạnh mà không phải là Đạo Đế mới là mục tiêu cuối cùng?

Đáp: Phạm Hạnh là hạnh thanh tịnh. Hoàn thành mục tiêu trên, tâm thức vị này không còn là một chúng sinh, bây giờ mới có thể tu tập Đạo Đế.

Giống như muốn nhuộm một tấm vải, người này phải giặt tấm vải ấy cho sạch. Tấm vải tâm thức phải sạch, mới có thể vẽ lên đó các huyễn phương tiện của Chư Phật một cách đầy đủ, không hoen ố.

Giống như nước bẩn, phải dùng phèn (Giác) lóng trong trong rồi phải nấu cho sôi (Ngộ bản chân), thì nước này mới có thể uống được, mà không sợ bị các loại bệnh do nước uống gây ra.

Chữ “Phạm Hạnh” trong Phật Đạo là thuật ngữ dùng để chỉ cho người thành tựu phần tự độ, gọi là chứng Diệt Đế. Kinh Đại Niết Bàn có liệt kê năm hạnh tu hành từ thấp lên cao:

  • Thiên Hạnh: Tâm thức được sinh ra từ các pháp lành;
  • Thánh Hạnh: Tâm thức không còn kiết sử;
  • Phạm Hạnh: Thành tựu hai vô ngã;
  • Anh Nhi Hạnh: Bắt đầu học Trí Tuệ Vô Lậu như một đứa trẻ và cuối cùng là…
  • Bệnh Hạnh: Thị hiện có bệnh rồi chết để xác chứng lời Chư Phật ba đời tuyên thuyết rằng thân này phải chịu quy luật của sanh, lão, bệnh, tử là chân thật, và thị hiện bệnh hạnh nhằm tạo cơ hội cho quyến thuộc cũng như đồ chúng thực hành hạnh báo hiếu để họ phát sinh công đức.

Hỏi: Xin cho biết, sự khác biệt giữa huyễn trí thật trí?

Đáp:

- Thật trí như vàng đã được tinh luyện không còn tạp chất. Dù để nguyên khối, cắt từng phần nhỏ, hay các hạt bụi (mạc) vàng từ khối vàng bay ra cũng đều đồng chất là vàng. Vì thế, ngôn thuyết, hành động,… từ thật trí luôn luôn mang đầy đủ tính chất của Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ. Huyễn trí như vàng chưa tinh luyện, còn nhiều tạp chất, không đồng nhất về tính chất. Cho nên, ngôn thuyết, hành động từ huyễn trí không đầy đủ ý vị của Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ.

- Thật trí biết rõ tất cả các danh tự cùng quả vị của Phật Đạo, từ cạn đến sâu. Cho nên, có thể dẫn người tu hành trải qua các quả vị của Phật Đạo không sai lệch. Huyễn trí chỉ biết một ít danh tự cùng các quả vị trong Phật Đạo cho nên chỉ có thể đưa người tu hành đến ngang bằng chỗ thực chứng của mình, không thể giúp họ tiến xa hơn.

- Thật trí tự thấu suốt những điều Phật đã dạy, đang dạy và chưa dạy. Huyễn trí chỉ biết những điều nào đã được học, những điều chưa học không thể tự biết. Nếu cố suy luận để biết, cái biết này không thấu đáo.

- Thật trí như người đã lội đến đáy của biển Đại Giác, sau đó quay lại dắt người tìm về biển Đại Giác. Huyễn trí như người theo kẻ thật trí trên đường tiến ra biển Đại Giác.

Hỏi: Người tu hành trong Phật Đạo, khi ngủ có mơ hay không?

Đáp: Tùy vào Giác Ngộ sâu cạn, mà mơ nhiều hay ít. Cũng như tùy vào Giác Ngộ sâu cạn mà mức độ tổn hại về tinh thần trong giấc mơ có sai biệt.

Hỏi: Xin được giảng nói cụ thể.

Đáp: Người vừa Giác Ngộ, trong giấc mơ, thường hay gặp các cảnh lành, vì tâm thức vị này còn nguyên hưng phấn của Giác Ngộ ban đầu.

Giống như người đang nghèo đói, bỗng dưng có được gia tài to lớn, niềm vui sướng này đeo đuổi vào tận giấc ngủ. Người Giác Ngộ lâu xa, đôi khi có những giấc mơ như người đời không Giác Ngộ, nhưng nỗi sợ hãi mau tan biến, tổn hại tinh thần không nhiều. Giống như một võ sĩ nhiều năm tập luyện, bình thường không nhớ mình có võ, nhưng bất thình lình lâm trận, họ cũng biết cách phòng hộ tự thân, không bị kẻ thù gây nhiều thương tích.

Người Giác Ngộ rốt ráo, giữa mơ và thật, không có sai biệt, đều tự tại như nhau. Giống như loài Linh Sư sống trên đỉnh núi Vô Uý, chỉ ăn đọt non cây Vô Ưu cao trăm trượng. Dù Linh Sư ngủ hay thức không có một loài thú nào khác có thể đến gần để gây tổn hại. Vì thế Kinh Đại Bát Nhã hoặc Đại Thừa có giảng nói về vô số giấc mơ và ý nghĩa các giấc mơ của Bồ Tát.

Hỏi: Vì sao người ta thường nói, tu hành trong Phật Đạo để ra khỏi sanh, lão, bịnh, tử. Nay lại nói, thị hiện bệnh hạnh để xác chứng lời ba đời Chư Phật tuyên thuyết về thân này phải chịu sanh, lão, bệnh, tử là chân thật.

Đáp: Phật Đạo chỉ dạy người tu hành ra khỏi sanh, lão, bệnh, tử khổ. Có nghĩa, cho dù thân này có trải qua bốn giai đoạn như thế, cũng không làm cho người tu hành trong Phật Đạo phải chịu khổ sở như người đời. Và Phật cũng dạy, người tu hành trong Phật Đạo ra khỏi sanh diệt, người đời hiểu sai hai chữ sanh diệt thành sanh tử”.

Ra khỏi sanh diệt, chấm dứt luân hồi, là vị này một phen Giác Ngộ, tâm thức không còn niệm niệm sanh diệt như người thế gian.

Cắt đứt vòng luân hồi, là tâm thức không còn xoay vần trong thương ghét, hơn thua, được mất, trí ngu, thiện ác suốt đời không có lối ra.

Tóm lại, dứt Tập, chứng Diệt, tu Đạo trong Phật Đạo nhằm giải quyết tận gốc của Khổ Đế, chứ không phải để luyện cho thân này trở thành “kim cương bất hoại như các mẩu truyện kiếm hiệp thường hay hư cấu!

Hỏi: Thế thì Phật vẫn thường nói, thân của Như Lai là thân Kim Cang.

Câu nói này có ý gì?

Đáp: Nói Kim Cang Thân là ám chỉ Pháp Thân, Phật Tánh, Phật Trí chứ chẳng phải nói đến một hữu vi pháp như nhục thân. Vì thế, Phật mới có ba thân:

- Báo Thân: Nhục thân vô thường.

- Hóa Thân: Những pháp do Phật Trí hóa hiện ra, các pháp này cũng thường cũng vô thường.

- Pháp Thân: Tên gọi để chỉ chung cho Phật Tánh, Phật Trí.

Phật Tánh, Phật Trí là thường, hai thứ này thuộc vô vi. Vì là vô vi nên tính chất của nó bền chắc không thể hư hoại, do không thể hư hoại nên Phật dụ như Kim Cương để người đời dễ cảm nhận.

Chớ có lầm Kim Cang Thân giống như viên kim cương người ta bán ở tiệm kim hoàn.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 2
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG