Đại Tiệc Kiến Giải

 0
Đại Tiệc Kiến Giải

Các bạn!!!

Cách đây rất lâu, một HĐ có hỏi mình về Tứ thần túc… Lúc đó mình trả lời: Tu Tứ thần túc để thành tựu hết thảy pháp lành... Ha ha ha ha!!! Mình biết lúc đó, đối với một số HĐ, câu trả lời này chưa thuyết phục, chưa thuyết phục thì chưa thuyết phục. Và bây giờ có lẽ, câu trả lời này cũng chưa thuyết phục đối với một vài HĐ... Ha ha ha ha!!! Mình cũng lại nói: Chưa thuyết phục, thì chưa thuyết phục!!!

1. DANH, CÚ, HÌNH THÂN

Danh thân, cú thân, hình thân (nói gọn là danh, cú. hình thân), chính là sự biến hoá khôn lường của trí tuệ. Nếu ai thấu suốt được nó, vận dụng được nó, sở hữu được nó thì, có thể biến hết thảy pháp đồng thành Phật pháp, có thể biến mọi thứ tâm thành đại tâm, có thể biến mọi thứ trí thành vô thượng trí, và quan trọng là, có thể biến mọi cảnh giới thành Phật cảnh giới. Nói chung, sức lưu xuất của nó không thể nghĩ bàn.

Trong email, mình chỉ lướt qua “danh, cú, hình thân”, mà không đặt thành vấn đề cụ thể để các bạn tư duy.

Vì sao như vậy??? Điều này giống như đối với những người đi tìm ngọc báu, chỉ một chút hy vọng, một thông tin mơ hồ về viên ngọc, người đi tìm ngọc coi đây là những cơ hội quý giá, coi đây là thông tin bổ ích, coi đây là cơ sở hiếm hoi, nhất định không bỏ qua, quyết truy tìm cho được, vì người này biết chắc, đây chính là dấu hiệu cần thiết để có thể tìm thấy cái cần tìm.

Nó giống như người lạc giữa rừng sâu, chợt thấy một chút ánh sáng nhỏ nhoi nơi bìa rừng. Người này nhận thức được, một chút ánh sáng nhỏ nhoi kia, có thể giúp ta ra khỏi rừng rậm. Giống như người “nhử cuốc”, chỉ thoảng nghe tiếng cuốc kêu, sẽ vui mừng, lóng tai, chú tâm, định thần, quyết tâm tìm kiếm.

Còn những ai, không quan tâm đến việc tìm ngọc, hoặc bằng lòng với đời sống hiện tại, thì những dấu hiệu kia là không cần thiết. Đây chính là lý do, vì sao mình chỉ đề cập phớt qua việc này, giống như chỉ loé lên chút ánh sáng rồi vụt tắt, mà không đặt thành chủ đề chính cho HĐ tư duy trong lúc đó. Nếu có HĐ nào bảo rằng “Những dấu hiệu kia là không cần thiết”, có lẽ mình sẽ lại tiếp tục nói “Không cần thiết, thì không cần thiết...” 

Hy vọng, một ngày nào đó, có người muốn sở hữu thật sự ba món danh, cú, hình thân, chúng ta sẽ làm một đại tiệc kiến giải về ba pháp trên. Vì rằng, ba pháp đã nói, chính là một trong những viên ngọc quý mà chúng ta cần có, để trở thành kẻ nhiều tài sản nhất, nhằm thực hiện thành công pháp thí. Một trong những mũi tiến công quan trọng để chiếm đoạt thành trì Vô Thượng. Điều này đòi hỏi phải có thời gian, công sức và trí tuệ. Mình đang chờ thời khắc đó!!!

(07-01-2014)

2.THỰCHÀNH…“HAITÂMCỦATHÁNHHIỀN”

Trong Kinh Tâm Địa Quán có đề cập đến hành tướng hai tâm của phàm phu và hành tướng hai tâm của thánh hiền. Nguyên văn đoạn kinh này như sau “… Thiện nam tử! Bởi nhân duyên ấy, uống thuốc “không” trừ tà kiến rồi, tâm tự giác ngộ, phát ra Bồ Đề, tâm giác ngộ ấy tức là tâm Bồ Đề, chứ không có hai tướng.

Thiện nam tử! Tâm tự giác ngộ có bốn nghĩa. Những gì là bốn? Các phàm phu có hai tâm, chư Phật, Bồ Tát có hai tâm.

- Thiện nam tử! Hành tướng hai tâm của phàm phu thế nào?

  • Một là, từ nhãn thức cho đến ý thức, nhân duyên tự cảnh là “tự ngộ tâm”.
  • Hai là, lìa tâm, tâm sở pháp của năm căn, hoà hợp duyên cảnh là “tự ngộ tâm”.

Thiện nam tử! Hai tâm như thế hay phát Bồ Đề.

- Thiện nam tử! Hành tướng hai tâm của Thánh Hiền thế nào?

  • Một là, quán chân thực lý trí.
  • Hai là, quán nhất thiết cảnh trí.

Thiện nam tử! Bốn nghĩa như thế là “tự ngộ tâm”...”

*****

Các bạn!!!

Mấy hôm nay, chúng ta nói nhiều đến ba pháp danh cú hình thân. Đoạn kinh trên Phật dạy hai loại hành tâm của phàm phu và hai loại hành tâm của thánh hiền. Mình có hai câu hỏi, xin chuyển đến các bạn:

1) Thật nghĩa đoạn kinh đã dẫn, muốn dạy chúng ta điều gì??? Xin phân tích cụ thể.

Chúng ta thử đặt tình huống giả định là: Có vị HĐ của mình, vì không thấu suốt hai hành tướng thánh hiền, nên không thể tự tiến tu để thành tựu Tâm Bồ Đề.

Các bạn đặt mình vào vị trí một Thiện Bằng Hữu, dùng ba pháp danh cú hình thân, khai mở, giảng thuyết, giúp vị HĐ này thấu suốt hai tướng thánh hiền là “Quán chân thực lý trí” và “Quán nhất thiết cảnh trí”. Cụ thể:

2) Hai pháp quán này là hai pháp quán những gì (xác định danh)??? Mỗ̃i pháp ứng dụng ra làm sao (xác định cú)??? Cứu cánh như thế nào (xác định hình)??? Để vị HĐ này, sau khi nghe xong, có thể như pháp mà thành tựu tâm Bồ Đề.

(12-01-2014)

3. ĐỊNH HƯỚNG…

Sau khi nhận các câu trả lời mở hàng, mình có vài nhận xét sau: Cách của các bạn triển khai, chỉ nhằm đưa đến Niết Bàn quyền tiểu, chứ chưa thể đưa đến trí tuệ.

Các bạn bỏ sót một yếu tố cực kỳ quan trọng, đó là phần đầu của đoạn trích: “Thiện nam tử! Bởi nhân duyên ấy, uống thuốc “không” trừ tà kiến rồi, tâm tự giác ngộ, phát ra Bồ Đề, tâm giác ngộ ấy tức là tâm Bồ Đề, chứ không có hai tướng...”

Mấu chốt vấn đề nằm ở đoạn này. Phàm phu mà đã “uống thuốc “không” trừ tà kiến rồi”, thì đây là “ loại phàm phu” gì??? Phàm phu vô văn hay phàm phu tướng???

Nếu đã uống thuốc “không” rồi, thì cách họ tu tập tiếp theo để “ngộ tâm Bồ Đề” nhằm “thành tựu trí Bồ Đề”, chắc là không giống như một “phàm phu vô văn”.

Nói khác hơn, đây là loại phàm phu đã từng: “Phát Tâm Bồ Đề”, “Phục Tâm Bồ Đề”. Đoạn kinh nói trên nhằm giúp cho “Những phàm phu và thánh hiền” này tiếp tục giác ngộ để “Kiến Đáo Bồ Đề”. Và sau đó có cơ hội “Xuất Đáo Bồ Đề” mà thành tựu “Vô Thượng Bồ Đề”.

Hy vọng, một vài định hướng nhỏ nói trên, sẽ giúp các bạn tư duy tốt hơn.

(13-01-2014)

4. GỢI Ý…

Chữ “Thánh hiền” kinh nói ở đây là những vị đã thấm nhuần “nghĩa không” rồi, “đã uống thuốc không trừ bịnh tà kiến, chúng sanh kiến rồi. Thánh hiền trong đoạn kinh trên, có thể hiểu đó là các Thanh văn thánh đệ tử của Phật như Tu Bồ Đề, như Xá Lợi Phất chẳng hạn... Có nghĩa những điều các bạn nêu ra về phương diện tu tập, các vị thánh hiền này “Rành” hơn các bạn. Họ cũng đã từng giảng nói như thế, hoặc hay hơn như thế…!!! Nhưng “Giác Ngộ Tâm Bồ Đề” thì chưa, nên mới cần đến việc phân tích mổ xẻ để làm sáng tỏ.

Trong câu hỏi, mình viết “Có một HĐ của chúng ta vì không thấu suốt hai pháp của thánh hiền trong kinh Tâm Địa Quán đã dạy, nhằm lấy đó tiến tu để ngộ tâm Bồ Đề, nhờ các bạn giúp HĐ này”.

Tình huống được nêu ra… HĐ đó đang kẹt mắc kiến thức ba thừa vì thế không thể "Ngộ Tâm Bồ Đề” và thành tựu “Trí Bồ Đề”. Nay nhờ các bạn mở lối giúp họ. (giúp họ chính là tự giúp các bạn đấy…)

Các bạn lại đem kiến thức giống như họ rồi trình bày. Nếu giúp “cái kiểu này”… thì để họ tự giúp có lẽ tốt hơn. Cái cần bức phá là ở chỗ̃ này!!! Huệ Năng khác Thần Tú là ở đây!!! 

Các bạn!!!

- Giai đoạn tự độ coi như đã xong, có nghĩa Phát Tâm Bồ Đề, Phục Tâm Bồ Đề đã biết, đã hiểu, đã tu. Nay đến lúc Ngộ Tâm Bồ Đề (còn gọi là Minh Tâm Bồ Đề hay Kiến Đáo Bồ Đề). Vì có minh tâm kiến tánh mới phát sanh trí tuệ. Người xưa nói: “Minh tâm kiến tánh trí huệ sáng suốt thần thông quảng đại...” là muốn nói đến giai đoạn hiện nay chúng ta đang hướng đến.

- Đây là giai đoạn cần sự bức phá mãnh liệt, đòi hỏi tính chính xác cực cao. Muốn được như thế, phải "chết đi cái kiến thức ba thừa”. Như con rùa muốn thành sư tử phải từ bỏ cái mai mình đã mang vác trên lưng. Con rùa gặp hiểm nguy, liền rụt đầu vào cái mai để được che chở. Ba thừa gặp hiểm nguy liền thu mình vào mớ tri kiến về Niết Bàn để cầu an lạc. Con sư tử gặp hiểm nguy sẽ làm khác. Nó tức thì xông thẳng vào đối tượng tạo ra hiểm nguy để chế phục và chiến thắng.

Bồ Tát gặp phiền não, chướng xứ, như vị tướng tài giỏi, lập tức xông thẳng vào phiền não, chướng xứ để chiến thắng. Đối với giặc sanh tử đang gieo rắc kinh hoàng trong ba cõi cũng như thế, đang cần các vị tướng tài giỏi, biết rõ thực lực địch ta để chiến thắng.

- Về nguyên tắc, muốn không bị rắn độc cắn, người ta phải chạy đến chỗ̃ không có rắn, hoặc giết hết chúng. Nhưng trên đời, không một ai có thể làm được chuyện này. Vì thế gian đâu đâu cũng có rắn, bạn có thể chạy đến nơi tạm coi không có rắn, hoặc giết hết những con rắn chung quanh nhà mình. Nhưng còn những nơi khác thì sao??? Có hoàn toàn an ổn và có thể giết hết rắn trên quả đất này được chăng??? Vì thế, các nhà khoa học làm khác. Họ nuôi rắn độc, chung sống với rắn độc, tìm hiểu độc tính của từng loài rắn, từ đó bào chế ra phương thuốc trị rắn cho nhân loại. Có nghĩa, “trên thế gian này không cần phải chạy trốn, không cần phải tiêu diệt. Mà vẫn không nguy hại vì độc tố của rắn!!!

- Ba thừa yểm ly phiền não, hoặc diệt phiền não bằng tri kiến của mình. Biện pháp này chỉ tự cứu, nhưng không hoàn hảo.

- Nhất thừa thì không như vậy, họ chung sống với phiền não, nhờ đối diện, nhờ chung sống với phiền não, nương nơi trí bén mà giác ngộ bản chất của phiền não, từ đó tìm ra diệu dược cứu người.

Vì thế kinh Đại Thừa Phật dạy: “Bồ Tát lấy phiền não làm quyến thuộc. Như sen mọc trên bùn”!!!

Hai pháp thánh hiền tu tập trong Tâm Địa Quán Kinh là như thế. Muốn làm được như thế, trước tiên phải xác định loại rắn (danh thân). Biết rõ cơ chế truyền độc và sức mạnh của các loại độc (cú thân). Tìm ra dược liệu khắc chế độc tố kia (hình thân).

Hầu hết, trong phần trả lời mình nhận được, các bạn xác định sai danh thân. Tức chưa thấu suốt tên gọi của hai pháp quán. Danh thân chưa thấu suốt thì cú thân và hình thân không thể triển khai.

Các bạn!!!

Hãy mang hai món nợ này bên mình. Đào sâu từng chữ từng lời. Bình tĩnh, bình tĩnh!!! Lặng lẽ - quan sát!!! Nhất định các bạn sẽ tự tìm cho mình chiếc chìa khoá từ hai pháp này.

Hôm qua, nhân lúc nói chuyện với một số HĐ. Phần lớn mọi người đều diễn giải giống nhau, đó là giảng thuyết cho phàm phu vô văn tu tập. Mình có lật ngược vấn đề như sau: Gặp người chưa giác ngộ, thuyết như các vị là đúng rồi, như lỡ gặp thánh hiền như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên, cao hơn nữa là gặp phải Bồ Tát Phổ Nhãn, Phổ Tịnh đang thị hiện mang phàm phu tướng, cho đến rủi mà gặp Ngài Văn Thù, cái hạng phi phàm phi thánh đến hỏi đạo. Không lẽ các bạn cũng thuyết như thế hay sao???

Các bạn!!!

Cái chúng ta cần lúc này là “Ngộ Tâm Bồ Đề” chứ không phải “Cầu Niết Bàn”. Vì rằng, có tâm Bồ Đề mới thành tựu trí Bồ Đề. Phật dạy “Duy tuệ thị nghiệp”, chứ chưa từng dạy “Duy Niết Bàn thị nghiệp”!!!... Mình xin trích một đoạn kệ trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chuyển đến các bạn. Mong rằng, từ đoạn kệ ngắn này, các bạn có được lời giải đáp thật hay...!!!!!!

“Ta cũng lại như vậy,

Đạo Sư của tất cả

Thấy những người cầu đạo

Giữa đường mà lười bỏ

Không thể vượt đường dữ

Sanh tử đầy phiền não

Nên dùng sức phương tiện

Vì nghỉ nói Niết bàn.

Rằng các ngươi khổ diệt

Chỗ làm đều đã xong

Đã biết đến Niết-bàn

Đều chứng A la hán

Giờ mới nhóm đại chúng

Vì nói pháp chân thật

Sức phương tiện các Phật

Phân biệt nói ba thừa

Chỉ có một Phật thừa

Vì nghỉ nên nói hai

Vì các ngươi nói thật

Các ngươi chưa phải diệt,

Vì nhứt thiết trí Phật

Nên phát tinh tấn mạnh

Ngươi chứng nhứt thiết trí

Mười lực các Phật Pháp

Đủ băm hai tướng tốt

Mới là chân thật diệt,

Các Phật là Đạo-Sư

Vì nghỉ nói Niết-bàn

Đã biết ngơi nghỉ rồi

Dẫn vào nơi huệ Phật.”

(15-01-2014)

5. PHÂN TÍCH TRIỂN KHAI

Mình nhận được một số trả lời của HĐ. Các câu trả lời có sáng hơn, nhưng hầu hết các bạn đều “trình bày kiến thức” của mình về việc “tự ngộ tâm Bồ Đề” hay diễn nói “thế nào là tâm Bồ Đề” hơn là hướng dẫn cụ thể cho người tu hành. Mà yêu cầu của câu hỏi là “giúp người tu hành, mở mang trí tuệ”!!!

Ngày xưa, khi thuyết pháp, Phật đã sử dụng nhiều “phương pháp giáo dục linh hoạt khác nhau”. Ví dụ:

  • Trước đại chúng: Phật là một diễn giả, trình bày bài pháp của mình một cách sinh động, lô gích, khoa học và thực tế. Khiến người nghe dễ lãnh hội.
  • Trước những câu nạn vấn: Phật căn cứ vào quan điểm của đối tượng mà đồng thuận hay phản bác, sau đó tuyên thuyết chân lý, kèm theo ví dụ minh họa.
  • Nếu giáo hoá riêng biệt: Phật nhân nơi vướng mắc của người, sau đó gợi ý để đối tượng tư duy và tự tìm lời giải đáp. Kèm ẩn dụ, để người tư duy phát sanh trí tuệ.
  • Với những vấn đề siêu hình: Phật im lặng, hoặc nhân nơi thực tại hiện hữu, lấy đó làm rõ vấn đề.

Chính sự linh hoạt và phong phú trong cách giáo hoá. Vì thế Đức Phật đã thành công trong sự nghiệp hoằng hoá của mình.

Tất nhiên, muốn thực hiện được điều này, cần phải: “Thấu suốt giáo pháp, nắm vững vấn đề và biết rõ đối tượng”. Hai câu hỏi đặt ra, với mục đích giúp các bạn phân tích tường tận một vấn đề có sẵn, sau đó tập ứng dụng một loại hình giáo dục mới, đó là danh cú hình thân để xiển minh giáo pháp giúp người. Để có thể trả lời hai câu hỏi, xin có một vài gợi ý sau:

Gợi ý câu 1) Quan sát xem, bài kinh đã dẫn, tức một vấn đề có sẵn nhằm vào đối tượng nào, cảnh giới họ đang ở và cảnh giới tiếp theo là gì???

Gợi ý câu 2) Đối với hai pháp quán mà người đang kẹt mắc, nên cho họ những gợi ý cần thiết nào, để chính họ tư duy rồi tự thấu suốt:

5.1. Thế nào là “Quán chân thật lý trí”?

5.1.1. Xác định danh thân.

Chữ trí trong Phật Đạo thường đặt ở cuối, nhằm nói lên điều gì??? Ví dụ: Khổ trí, Vô sanh trí, Đại viên cảnh trí. Những chữ trí này, nên hiểu như thế nào để đúng với ý nghĩa và vị trí hiện tại của nó trong câu???

5.1.2. Xác định cú thân.

  • Nếu dùng trí, không dùng thức mà quán “tột lý”, thì lý có mấy thứ???
  • Lý thế gian, từ đâu mà có??? Tột lý có nghĩa gì???
  • Lý xuất thế, từ đâu mà có??? Tột lý có nghĩa gì???
  • Quán đến “tột lý”, lý này từ đâu sanh???
  • Lý đã không, Phật lý như thuốc nhân bệnh mà có, thì hai thứ lý kia (thế và xuất thế), nơi bản chân (Bồ Đề Tâm) nên hiểu, nên biết, nên thấy như thế nào về nó???
  • Đã biết bản chân không lý, như thế Phật và chư Thánh tuyên thuyết Diệu lý, Diệu lý này từ đâu ra??? Công dụng để làm gì???

5.1.3. Xác định hình thân.

  • Bản chân không lý, vậy bản chân là gì???
  • Bản chân và Bồ Đề Tâm là hai hay chẳng hai???
  • Như vậy thì, Bồ Đề Tâm và Bồ Đề Trí có khác nhau chăng???

5.1.4. Phần hộ trì để thâm nhập Tâm Bồ Đề.

  • Tâm Bồ Đề (bản chân) đã không, làm sao có bốn thứ tâm vô lượng???
  • Đã biết bốn tâm vô lượng là thường, kẻ trí làm sao có thể sanh Diệu tâm???
  • Có được Diệu tâm, làm sao phát sanh Diệu trí (Chân thật lý)???

5.2. Thế nào là “Quán nhất thiết cảnh trí”?

5.2.1. Xác định danh thân.

Giống như phần A. Xác định “chữ trí”

5.2.2. Xác định cú thân.

  • Nếu dùng trí không dùng thức, “lặng lẽ quán cảnh duyên và thế giới”, thì cảnh duyên và thế giới, bản chất của nó có ý nghĩa gì???
  • Đã biết cảnh duyên thế giới tự nó không nghĩa, trống rỗ̃ng, chỉ có danh và tướng do thế đế lưu bố. Thì xét tột cùng của cảnh duyên trước mắt, có như “sừng thỏ, lông rùa” hay không??? Có như bình đựng sữa đã cạn, bình đựng dầu đã hết??? Bình đựng sữa đã cạn, bình đựng dầu đã hết, trong nó có gì???
  • Đã như sừng thỏ lông rùa, thì kẻ trí, nên hiểu, nên biết, nên thấy...như thế nào về hết thảy cảnh duyên (nhứt thiết cảnh)!!!

5.2.3. Xác định hình thân.

Nếu sừng thỏ, lông rùa chỉ có danh mà không có thực thể, kẻ trí nhân nơi danh tướng kia, có thể phát sanh Từ tâm, Bi tâm mà hoá hiện các thiện cảnh giới hay không???

5.2.4. Phần hộ trì để thâm nhập Trí Bồ Đề.

  • Muốn hoá hiện các “thiện cảnh giới”, cần những điều gì???
  • “Bảy cảnh giới đệ nhất nghĩa”, “mười một thứ trí”, “ba loại ngữ ngôn”... Mỗ̃i món ứng hợp với một tâm địa cụ thể nào???

Trên đây tuy chỉ là vài gợi ý nhỏ, để HĐ tư duy, trả lời câu hỏi… nhưng nếu nắm vững, thấu suốt, biết hoạt dụng sẽ “xây dựng nên một nhà máy Diệu trí vô tận”!!! Sản xuất thành công “vô lượng Diệu pháp”!!! Sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu “thị trường trong và ngoài nước”.

Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng đã phát hiện ra nhà máy và chúng ta không lạ, khi nghe Ngài thảng thốt la lên: “Nào dè tự tánh có thể sanh muôn pháp”!!! Ha ha ha ha!!!

(16-01-2014)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 2
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG