Ba Giai Đoạn Cơ Bản Nhận Thức Bát Chánh Đạo Trong Tu Tập

 0
Ba Giai Đoạn Cơ Bản Nhận Thức Bát Chánh Đạo Trong Tu Tập

Hỏi: Trong Phật Đạo, lấy gì phân định chánh, tà?

Đáp: Căn cứ vào tám điều của Phật Đạo để phân định chánh, tà. Tám điều này Phật Đạo gọi là Bát Chánh Đạo.

Hỏi: Bát Chánh đạo trong Phật giáo có mấy giai đoạn?

Đáp: Bát Chánh có nhiều giai đoạn, nhưng có ba giai đoạn cơ bản. Người tu tập trong Phật Đạo phải tuần tự thâm nhập từng giai đoạn một.

Giai đoạn một: Bát Chánh giúp người Giác Ngộ, dứt Tập Đế, đại loại như sau:

-  Thấy biết nào giúp ta Giác Ngộ, chấm dứt vĩnh viễn kiết sử, gọi là Chánh Kiến.

- Nghĩ suy nào, giúp ta Giác Ngộ, thấy rõ nguồn gốc phát sinh tham, sân, gọi là Chánh Tư duy

- Lời pháp nào, khiến ta Giác Ngộ, không còn ngu si, ra khỏi mọi tham đắm pháp thế gian gọi là Chánh Ngữ.

- An lạc nào, từ những Giác Ngộ nói trên, khiến kiết sử1 hoàn toàn tịch diệt gọi là Chánh Định.

Giai đoạn hai: Bát Chánh giúp người Giải Thoát, thấy được bản tâm, chứng Diệt Đế. Bát Chánh thuộc các giai đoạn như sau:

- Thấy biết nào giúp ta không còn trôi nổi trong ba cõi, “thấy biết” nào giúp ta không bị cột trói bởi ngũ ấm, thấy biết nào giúp ta nhận ra rằng năm uẩn bản chất nó là không, thấy biết nào giúp ta Giác Ngộ thân tâm này bản lai tự tịnh, gọi là Chánh Kiến.

- Nghĩ suy nào giúp ta thấu đáo Chánh Kiến, vĩnh viễn Giải Thoát khỏi mọi sự trói buộc, chấm dứt hết thảy khổ đau, gọi là Chánh Tư duy

- Lời nói nào, giúp ta thực hiện được những điều trên, gọi là Chánh Ngữ.

Bất Động Thanh Tịnh nào, do Giải Thoát, do Giác Ngộ bản lai tự tịnh mà có, gọi là Chánh Định.

•  Giai đoạn ba: Bát Chánh giúp người có được trí tuệ; trí tuệ này, biết rõ mọi con đường đưa chúng sanh đến khổ đau, gọi là biết Khổ Tục Đế.

- Nhận ra thế nào là trở ngại của bậc thánh, gọi là biết Khổ Thánh Đế.

- Thấu hiểu thế nào mới là: “chân lý tối thượng” và cũng biết rằng trong Đạo Bồ Tát, có những vị chưa hoàn toàn biết được “chân lý tối thượng” này để có thể tiến về Đạo Quả Vô Thượng, gọi là biết Khổ Chân Đế.

Trí Tuệ này, có năng lực giúp các thừa trong Phật Đạo vượt qua mọi khó khăn, thể nhập Nhất Thừa. Đại khái, Bát Chánh ở giai đoạn này như sau:

-Người thấy được thiệt tướng của vạn pháp, gọi là người có Chánh Kiến.

- Người biết ba thừa đồng như huyễn mộng, không thật, gọi là Chánh Tư duy

- Người có thể tuyên thuyết giúp người khác lần lượt đạt thành tựu Tứ Đế, vượt qua từng phẩm một của Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, tùy theo địa vị của họ, để có thể thành tựu ba giai đoạn Bát Chánh nói trên, gọi là Chánh Ngữ.

- Đời sống và Trí Tuệ không hai, gọi là Chánh Định.

- Nói tóm lại, có tám điều như thế, để phân định thế nào là chánh, thế nào là trong Phật Đạo.

Ở đây, chỉ nói khái quát một số điều chân chánh cơ bản, từ những điều cơ bản đã nói, người tu hành có thể suy luận và nhận biết những thứ chánh còn lại. Thiết nghĩ, không cần phải giải thích cụ thể.

Hỏi: Người tu hành trong Phật Đạo, có nhất thiết phải tuần tự vượt qua các giai đoạn đã nêu ở trên hay không? Xin hỏi, có cánh nào để đốt cháy giai đoạn hay không?

Đáp: Hầu như, tất cả những người tu hành trong Phật Đạo, đều phải tuần tự vượt qua các giai đoạn kể trên. Trong mỗi giai đoạn có “đốn”, có “tiệm” tức là có nhanh có chậm. Nhanh hay chậm ở mỗi giai đoạn, tùy thuộc khả năng lãnh hội và cơ trí của từng người. Còn trên đời, có người nào đó một lúc vượt qua ba giai đoạn, thấu suốt hết mọi thứ, bỗng dưng có thể giảng nói, tuyên thuyết, như một Đức Phật thì thật tình tôi chưa thấy người như vậy. Vì thế, trong Phật đạo mới chia ra “ngũ thời thuyết pháp”. Ngũ thời thuyết pháp chính là giáo trình nâng người tu hành từ thấp lên cao.

Hỏi: Sách sử chép lại: Lục Tổ Huệ Năng, có thể đốt giai đoạn, sao ngài lại bảo rằng không thấy?

Đáp: Nếu Huệ Năng có thể đốt mọi giai đoạn, chỉ một tích tắc là hiểu ra mọi thứ, thì đâu có phải mất công sáu tháng giã gạo. Đâu phải mất công nửa đêm lên Thất Tổ để nghe giảng kinh một lần nữa. Đâu cần trên thuyền, Ngũ Tổ phải dặn dò. Đâu cần được nghe nói câu: “Không biết thì thôi, biết làm thầy trời người…” Làm thầy trời người, đâu có nghĩa làm thầy của hết thảy các địa vị trong Phật Đạo. Những lời “ẩn mật” như thế, đâu có dễ biết hết nghĩa lý của nó. Người đời chỉ thấy một hiện tượng Huệ Năng, mà không thấy cái sâu xa vi diệu của Đạo pháp được gửi gắm giữa hai thầy trò họ.

CÁC LOẠI THIỀN ĐỊNH TRONG PHẬT ĐẠO

Hỏi: Nếu bảo rằng, chỉ nhân nơi ngôn thuyết để giúp người thành tựu Đạo pháp, tại sao kinh lại còn nói đến những thứ thiền định?

Đáp: Các thứ thiền định của Phật Đạo đều do Giác Ngộ mà được.

- Giác Ngộ Tục Đế, cho ra Thế Gian thiền.

- Giác Ngộ Thánh Đế, cho ra Xuất Thế Gian thiền.

- Giác Ngộ tột cao, cho ra Xuất Thế Gian Tối Thượng Thừa thiền.

Hỏi: Xin huynh trưởng nói sơ lược cho tôi biết, như thế nào nhân Giác Ngộ sâu cạn mà có ba thứ lớp Thiền đã nêu ở trên?

Đáp: Ba loại thiền như sau:

- Đầu tiên, người này nghe nói đến nguồn gốc phát sinh kiết sử.

Nghe nói như vậy, người ấy bèn tìm nơi vắng vẻ, chiêm nghiệm để thấy cho được nguồn gốc này. Thuật ngữ của Phật Đạo gọi chiêm nghiệm này là “tứ” hay “quán”. Giác Ngộ nguồn gốc rồi, vị này đưa tâm ý vào chỗ không có kiết sử. Đưa tâm ý vào chỗ không kiết sử gọi là “tầm” hay “giác”.

Giác như thế, đến khi mọi nguyên nhân làm phát sinh kiết sử hoàn toàn tịch diệt 2. Trong quá trình từ tư duy nguyên nhân đến tịch diệt kiết sử, những “Thiền Chi” xuất hiện rồi bão hòa cho đến mất hẳn, chỉ còn một nguồn tâm an ổn do tịch diệt kiết sử mà có, an ổn này gọi là “Định”. Được định này rồi, vị ấy biết rằng bản thân đã dứt Tập; cũng biết rằng Tập này lấy Giác (hiểu biết) làm Đế (chỗ nương cậy).

“Thiền” và “Định” này thuộc Thế Gian Thiền. Gọi là Thế Gian Thiền, vì nó chỉ có giá trị không hiện khởi “kiết sử” chứ chưa “giải thoát” ra khỏi ba cõi.

- Sau khi, có được nguồn tâm an ổn, vị này tạm coi như đã dọn dẹp xong cành nhánh vô minh (nhuận chi vô minh).

Vị này được đạo sư chỉ cho thấy thân tâm này, bản lai tự tịnh. Ngũ ấm chỉ do mà có, ngũ uẩn chỉ do lầm mà sanh, bản chất của năm món: sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ có tên gọi mà không thực thể. Do “mê” nên bị ngũ ấm trói buộc, do “lầm” cho nên bị ngũ uẩn làm cho phiền não. Dứt mê lầm năm món, thân tâm đồng hư không. Vị này nghe nói thế, tìm chỗ thanh vắng, trả thân tâm về đúng bản lai4, vượt qua cái đạo trước đây do nghĩ suy (Giác) mà được (A Na Hàm). Vị này bắt gặp “thiệt tế” của thân tâm. Trong quá trình này, thân tâm cũng lần lượt trải qua các “Thiền Chi” như lần trước.

Cho đến khi, vị ấy bắt gặp (Ngộ) được bản lai thân này thanh tịnh, tâm này bất động, ý này tự giải thoát”. Ngộ như vậy rồi, vị này tự biết rằng, hết thảy do mê tâm, mê pháp mà sinh. Xưa chưa từng có tâm, thì nay cũng chưa từng có pháp. Biết như vậy, vị này chứng hai vô ngã, trong không sinh tâm, ngoài không sinh pháp, cắt đứt “căn bản vô minh” (cái gốc của vô minh).

Như như bất động trước mọi hoàn cảnh gọi là “Định”. Trong định này, vị ấy như thật biết rằng ba cõi duy tâm. Và vị này cũng biết rằng, Diệt Đế này do Ngộ (thiệt tế) mà được. Vì thế Ngộ là Đế của Diệt. Chữ Đế bây giờ có nghĩa là “Chân Lý”, tức là do “Ngộ ra Chân Lý” mà có cứu cánh, còn gọi là Chân Đế. Từ đây, không còn chung cùng thế gian pháp. Giác Ngộ và kết quả đạt được này, gọi là Xuất Thế Gian Thiền.

- Sau khi chứng Diệt Đế rồi, Phát thệ nguyện, cầu Đạo Bồ Đề. Vị này được Đạo Sư giảng nói về ý nghĩa “Tất Cánh”. Dạy các môn Giải Thoát của Chư Phật, truyền trao “Trí Đạo cùng Tất Cánh Môn”. Thành tựu Đạo Đế, vị này biết rằng Đạo này do Trí mà được, nên Trí này là Đế của Đạo. Chữ Đế bây giờ có nghĩa là “Tất Cánh”.

Vì là Tất Cánh nên, gọi là “Xuất Thế Gian tối thượng thừa thiền định” Vì sao có tên gọi là Xuất Thế Gian Tối Thượng Thừa thiền định? Vì định này là Na Già Đại định, là Thủ Lăng Nghiêm Vô Tướng định, là Ma Ha Bát Nhã định, là Nhất Thiết Trí định, là Nhất Thiết Tất Cánh định, là Kim

Cương Bất Hoại định, là Vô Kiến Đảnh định, là Hư Không Vô Vi định, là Hoa Nghiêm Tối Tràng định, là Bất Đoạn Mạng Mạch định Là “mẹ” sản sanh ra Thế Gian Thiền Định và Xuất Thế Gian Thiền Định. Cho nên, dù nói cả một kiếp, cũng không thể kể hết tên và công dụng của định này.

Tóm lại, trên đây chỉ là những nét khái quát về các loại Thiền định trong Phật Đạo.

Không Giác Ngộ mà có được Thiền Định thì Thiền Định này tương đồng với Thiền định của ngoại đạo. Vì sao lại như vậy?

Vì Thiền định nào không đưa người đến Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ”nên đều gọi là “ngoại đạo Thiền Định”.

Cho nên, xưa nay người ta gọi Phật Đạo là, Đạo Giác Ngộ, Đạo Giải Thoát, Đạo Trí Tuệ là vậy.

Cũng vì điều này, mà Kinh có đề cập đến Ngoại Đạo Chủng Tánh, Ngoại Đạo Chủng Tánh là người tu trong Phật Đạo mà hiểu biết, tu tập, y cứ, thành tựu… không khác gì một ngoại đạo.

---------------------

  1. Kiết sử: là thứ tâm ý trói buộc, khiến con người phát sinh phiền não, lậu hoặc.
  2. Tịch diệt: Tâm và Pháp không còn sinh diệt.
  3. Bản lai: Gốc rễ xưa nay của một hữu tình.

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

Thích Thích 1
Không thích Không thích 0
Yêu Yêu 0
Buồn cười Buồn cười 0
Tức giận Tức giận 0
Thất vọng Thất vọng 0
Ấn tượng Ấn tượng 0
Văn Hoá Phật Giáo Đạo tràng Văn hoá Phật giáo "Hương Sắc Bồ Đề" là nhóm phật tử, nghệ sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu mến Văn hóa Phật giáo, cùng tham gia học tập Phật đạo và lan tỏa Văn hóa Phật giáo vào đời sống thông qua các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, biểu diễn, điện ảnh, với tinh thần Sáng Đạo Trong Đời - Mang yêu thương và ước mơ đến những nơi xa nhất; Nội dung: TUỆ QUANG - Biên tập: LÝ HUYỀN KHÔNG