Phật Thuyết Giới Đức Hương Kinh
Đức Phật bảo Ngài A Nan : Lành thay, lành thay ! Thật đúng như lời ông hỏi, có loại hương vừa bay thuận gió cũng vừa bay ngược gió.

Phật Thuyết Giới Đức Hương Kinh
Đông Tấn Trúc Đàm Vô Lan dịch
Bản Việt dịch (1) của Thích Nữ Như Tuyết
Bản Việt dịch (2) của Huyền Thanh
***
Kinh Đức Phật Nói Về Hương Giới Đức
Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
Tôi nghe như vầy; một hôm Đức Phật du hóa tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ.
Lúc ấy, Hiền giả A Nan một mình ở nơi yên tĩnh suy nghĩ; ở đời có ba loại hương: Một là hương của rễ, hai là hương của cây, ba là hương của hoa. Ba loại hương này bay theo chiều gió, không thể bay ngược lại. Có loại hương nào vừa bay theo gió, vừa bay ngược gió hay không ?
Hiền giả A Nan một mình ở nơi yên tĩnh trầm tư suy nghĩ không sao hiểu được ý nghĩa, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân hồ quỳ chắp tay bạch Phật rằng : “ Con ngồi một mình suy nghĩ, ở đời có ba loại hương: Một là hương của rễ; hai là hương của cây; ba là hương của hoa. Ba loại hương này bay theo chiều gió, không thể bay ngược gió, con không hiểu có loại hương nào vừa bay theo gió, vừa bay ngược gió hay không ?”
Đức Phật bảo Ngài A Nan : Lành thay, lành thay ! Thật đúng như lời ông hỏi, có loại hương vừa bay thuận gió cũng vừa bay ngược gió.
Ngài A Nan bạch Phật, con muốn nghe về mùi hương đó.
Đức Phật dạy : “ Nếu ở nơi quốc độ, thành ấp thôn lạc, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, tu hành mười điều thiện : Thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng không nói vọng, nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói lời thêu dệt. Ý không tật đố, sân hận, si mê, biết hiếu thuận với cha mẹ, phụng sự Tam Bảo, nhân từ đạo đức, oai nghi tiết hạnh. Ở phương Đông có vô số vị sa môn, phạm chí ca ngợi đức ấy. Ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng phương trên, phương dưới cũng có vô số vị sa môn, phạm chí ca ngợi đức ấy như vầy. Hoặc ở nơi quốc độ thành ấp thôn lạc nào đó, cũng có thiện nam, thiện nữ nhơn thực hành mười điều thiện, biết tôn kính phụng trì Tam Bảo, nhân từ hiếu thuận, ân nghĩa đạo đức, không mất lễ tiết. Đây là loại hương vừa bay thuận gió vừa ngược gió bay khắp cả, tỏa chiếu mười phương hết thảy đều được nương nhờ.”
Đức Phật Liền nói kệ :
Hoa tuy thơm và đẹp
Không thể bay ngược gió
Dẫu là hoa chiên đàn
Mùi hương hơn tất cả.
Đức tánh người hòa nhã
Gọi là hương ngược gió.
Bồ Tát gọi trượng phu
Bay khắp cả mười phương
Gỗ thơm và chiên đàn
Mùi thơm hoa sen xanh
Hết thảy các mùi hương
Giới hương là hơn hết.
Ấy là giới thanh tịnh
Hành trì không phóng dật
Không theo đường của ma
Không thấy chổ hướng về
Con đường đến Niết Bàn
Đường này là hơn hết.
Đoạn trừ gốc uế trược
Phá tan hết lưới ma
Tiến đến thành Phật đạo
Đạt trí tuệ vô cùng
Vì vậy nghĩa hương này
Dứt trừ mọi xấu ác.
Lúa ấy Đức Phật bảo Ngài A Nan:
“Loại hương này không bị núi Tu Di hay trời đất ngăn cản, cũng không bị bốn đại là đất, nước, gió, lửa cản trở thông suốt cả tám hướng, trên dưới khắp mọi cảnh giới đều ca ngợi đức ấy đó là: Người không sát sanh, sẽ đời đời được trường thọ, không bị chết yểu. Người không trộm cắp, đời đời giàu có, không bị hao tài tốn của, lấy việc bố thí làm chính. Người không tà dâm, không xâm phạm vợ người, được sanh ra từ hoa sen. Người không vọng ngữ, thường nói lời tốt đẹp, hơi miệng thường thoảng ra mùi thơm, được người tin dùng; không nói hai lưỡi, trong gia đình được hòa thuận, không ly tán; không nói lời hung ác thường nói lời hòa nhã lưu loát; không nói lời thêu dệt, khiến mọi người nghe lời nói ấy đều thọ nhận dùng làm trân báu. Người không tật đố đời đời sanh ra được mọi người tôn kính. Người không sân nhuế đời đời được thân hình xinh đẹp, được người thấy sinh tâm vui vẻ. Người trừ bỏ ngu si, đời đời sinh ra có đầy đủ trí huệ được mọi người học hỏi, xả bỏ tà kiến thường sống trong chánh đạo, từ chổ tu hành chứng đắc tự nhiên phát sanh, dứt bỏ tà đạo, tu theo giáo pháp chơn thánh vi diệu”.
Lúc ấy các vị tỳ kheo nghe Đức Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.
Kinh Đức Phật Nói Về Hương Giới Đức
Việt dịch: Huyền Thanh
Nghe như vầy. Một thời Đức Phật dạo chơi ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (Jeṭavaṇe’nāthapiṇḍadasyārāma) tại nước Xá-Vệ (Śrāvastya).
Khi ấy, Hiền Giả A Nan (Ānanda) một mình ở nơi yên tĩnh, suy nghĩ : “Đời có ba loại mùi thơm: Một là mùi thơm của rễ cây, hai là mùi thơm của cành cây, ba là mùi thơm của hoa. Ba loại mùi thơm này chỉ là mùi thơm đi theo chiều gió, chẳng thể đi ngược với chiều gió. Há có mùi thơm nào xưa nay (nhã hương) vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió chăng ?”
Hiền Giả A Nan ở một mình, suy nghĩ chỗ quy hướng của nghĩa lý, nhưng chẳng biết được nơi quy hướng. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ của Đức Phật, cúi đầu dưới bàn chân của Đức Phật, quỳ thẳng lưng, cài chéo bàn tay, rồi bạch Phật rằng: “Con ở một mình suy nghĩ: “Đời có ba loại mùi thơm: Một là mùi thơm của rễ cây, hai là mùi thơm của cành cây, ba là mùi thơm của hoa. Ba loại mùi thơm này chỉ có thể đi theo chiều gió, chẳng thể đi ngược với chiều gió. Há có mùi thơm nào xưa nay (nhã hương) vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió chăng ?”
Đức Phật bảo A Nan: “Lành thay ! Lành thay ! Thật đúng như ông đã hỏi. Có mùi thơm chân chính vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió”
A Nan bạch Phật: “Nguyện xin nghe về mùi thơm ấy”
Đức Phật nói: “Nếu ở cõi nước, quận, huyện, ấp, làng, xóm có kẻ trai lành, người nữ thiện tu hành mười điều Thiện: Thân chẳng sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng chẳng nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt. Ý chẳng ganh ghét, giận dữ, ngu si. Hiếu thuận với cha mẹ, phụng sự ba Tôn (ba báu Phật Pháp Tăng), nhân từ, đạo đức, uy nghi, lễ nghĩa quy củ (lễ tiết).
Phương Đông có vô số Sa Môn, Phạm Chí ca tụng Đức ấy. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới có Sa Môn, Phạm Chí đều ca ngợi Đức ấy: “Tại nước, quận, huyện, ấp, làng, xóm (tên là…) có kẻ trai lành, người nữ thiện phụng hành mười điều Thiện, tôn kính phụng sự Tam Bảo. Hiếu thuận, nhân từ, đạo đức, ân nghĩa, chẳng mất lễ nghi quy củ”
Mùi thơm này gọi là vừa đi theo chiều gió, vừa đi ngược với chiều gió, vòng khắp mọi nơi, chiếu soi mười phương, truyền bá Đức (Guṇa), tất cả đều mong nhờ nương cậy”
Thời Đức Phật tụng rằng:
“_Tuy có hoa thơm đẹp
Chẳng ngược gió, xông ướp
Chẳng ngừng, tên Chiên Đàn (Candana)
Tuôn mưa mọi mùi thơm
Chí Tính hay hòa nhã
Tỏa mùi thơm ngược gió
Chính Sĩ (Bậc Đại Sĩ cầu Chính Đạo) tên Trượng Phu (Puruṣa)
Xông ướp khắp mười phương Mộc Mật (cây củ có quả ngọt như mật) với Chiên Đàn
Sen xanh tuôn mưa thơm
Tất cả mùi thơm này
Giới Hương (mùi thơm của Giới) là tối thượng
Nhóm này, người trong sạch
Thực hành, không phóng dật
Chẳng biết lối của Ma (Māra)
Chẳng thấy nơi hướng về (quy thú)
Đường này đến an định
Đạo này không gì hơn
Chặt đứt nguồn dơ bẩn
Giáng phục, dứt lưới Ma
Dùng nhà Phật Đạo trên
Nhảy lên Tuệ không cùng
Dùng đây tuyên nghĩa Kinh
Trừ bỏ mọi điều xấu”
Đức Phật bảo A Nan: “Chỗ mà mùi thơm này đã lan tỏa thời chẳng ngại núi Tu Di, xuyên qua Trời Đất, chẳng ngại bốn chủng: đất, nước, lửa, gió; thông đạt tám cực (vùng đất rất xa ở tám phương); phương trên phương dưới cũng thế; không có giới hạn cùng tận…đều ca ngợi Đức ấy.
_ Một đời chẳng sát sinh thì đời đời trường thọ, mạng ấy không có tai nạn đột ngột
Người chẳng trộm cắp thì đời đời giàu có, lại chẳng sằng bậy đánh mất tài bảo, thường để Tâm bố thí, làm gốc rễ của Đạo.
Người chẳng đam mê bóng sắc bất chính thì người khác chẳng xâm phạm đến vợ của mình, nơi đi đến là hóa sinh trong hoa sen.
Người chẳng nói dối thì miệng tỏa ra hơi thơm, lời nói ra luôn luôn được tin tưởng.
Người chẳng nói hai lưỡi (nói lờ chia rẽ đâm thọt) thì nhà thường hòa hợp, không có biệt ly
Người chẳng ác khẩu (nói lời xấu ác) thì cái lưỡi của người ấy thường nói lời lẽ tốt đẹp, biện luận thông suốt.
Người chẳng nói thiêu dệt (nói lời tạp uế không có nghĩa) thì người nghe được lời nói ấy không có ai chẳng đến xin ý kiến, nhận lấy truyền bá, dùng làm điều quý báu.
Người chẳng ganh ghét đố kỵ thì đời đời sinh ra ở đâu đều được mọi người kính trọng
Người chẳng giận dữ thì đời đời đoan chính, người nhìn thấy vui vẻ, trừ kẻ ngu si. Sinh ra Trí Tuệ tốt đẹp, chẳng cần thỉnh hỏi ai, buông bỏ Tà Kiến, thường trụ Chính Đạo, theo Hạnh (Caryā) mà chỗ đạt được đều tự nhiên sinh. Cho nên vứt bỏ sự không chính đáng (tà), thuận theo sự màu nhiệm chân thật ấy
Đức Phật nói như vậy thời các Tỳ Khưu nghe xong, đều vui vẻ làm lễ rồi lui ra.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






