Kinh Phổ Diệu 7
Bồ-tát ngồi dưới gốc cây Bồ-đề hàng phục xong ma oán, thành bậc giác ngộ chân chánh, tiêu sạch cội rễ, gai góc cội nguồn của ba độc, không còn các loại duyên khởi ấm, cái, vĩnh viễn không còn mê mờ

Phẩm 19: THIỀN TƯ HÀNH ĐẠO
Phật bảo Tỳ-kheo:
-Bồ-tát ngồi dưới gốc cây Bồ-đề hàng phục xong ma oán, thành bậc giác ngộ chân chánh, tiêu sạch cội rễ, gai góc cội nguồn của ba độc, không còn các loại duyên khởi ấm, cái, vĩnh viễn không còn mê mờ. Các tư tưởng đã định, trong sạch như hư không, mạnh mẽ không còn bị các nạn. Dựng lên ngọn cờ lớn, chỉ bày cho tất cả, giáo hóa mười phương, độ thoát ba cõi, lặng ngồi bên gốc cây hiện bày Tứ thiền, vì kẻ hậu học chỉ rõ con đường tắt để cột cái ngã. Thần thông vi diệu, vứt bỏ các pháp dục xấu ác, không còn trở lại năm triền cái, không nhận năm món dục, các ác tự diệt, nghĩ nhớ phân minh, suy nghĩ vô vi, giống như người khỏe mạnh thắng kẻ oan gia, ý đã thanh tịnh, thành hạnh Nhất thiền.
Tâm tư mở bày, hiểu rõ, khước từ tình dục, không điều nào để loại bỏ. Không còn chấp quán, vắng lặng, thanh thản như hạnh Thánh hiền. Mọi nhớ nghĩ suy tư đã dứt, giống như nước suối từ trên đỉnh núi cao, tự trong đó tràn đầy tuôn chảy ra bên ngoài. Như khe hang tràn đầy nước mưa, không còn có gì vào được nữa, vắng lặng, giữ một lòng chuyên nhất không dời đổi, thành hạnh Nhị thiền.
Lại vứt bỏ tâm vui mừng, chỉ còn tâm vô dục. Bên ngoài tất cả những việc tốt xấu hoàn toàn không vào được, Bên trong cũng không hề sinh khởi. Tâm ngay thẳng, thân an ổn, giống như hoa sen, gốc rễ đều ở trong đất bùn, khi hoa chưa nở, cành, hoa, lá đều thấm nhuần trong nước. Vì tịnh, nên hiện chân, thành hạnh Tam thiền.
Vứt ý vui khổ, không tưởng buồn vui, tâm không nương thiện cũng không vin ác, không tâm khổ vui. Ở bên trong chân chánh như người tắm gội sạch sẽ, lại đem tấm lụa mới tinh đẹp đẽ choàng lên. Trong ngoài đều sạch, không nhơ. Chấm dứt hơi thở, tịch nhiên không thay đổi, thành hạnh Tứ thiền.
Thí như nhà làm đồ gốm pha đều đất thô hòa với đất nhuyễn, trong đó không có cát, đá vụn, muốn làm vật gì cũng được. Hễ tinh tấn khai phá thì không có gì là không làm được. Đã được tịnh ý, gây dựng đại Từ, không bỏ đại Bi, trí tuệ phương tiện khéo léo, xét tìm thấu suốt điều cốt yếu nhiệm mầu. Thông suốt ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó là: bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Chánh đạo, cứ tuần tự đến cuối cùng rồi trở lại ban đầu. Nhân hiểu rõ ba giải thoát, đắc trí tam đạt. Nay việc tới lui không hề trở ngại. Biến hóa hiển bày pháp. Những điều ưa thích được như ý muốn, không còn phải nghĩ ngợi. Thân có thể bay đi, có thể phân một thân ra làm trăm làm ngàn, cho đến vạn ức vô số thân. Rồi khiến nhập làm một thân. Có thể xuyên vào đất đá, vách tường, đều có thể đi xuyên qua được. Hiện ra ở nơi đây rồi lại ẩn mất, ẩn mất rồi lại hiện, như ra vào nước; trong thân tuôn ra nước, lửa. Lội dưới nước hay đi trên không không bị chìm hoặc bị rơi ngã; nằm ngồi trong hư không như loài chim bay liệng. Ngồi có thể đụng trời, đưa tay sờ nắm mặt trời, mặt trăng. Thân đứng thẳng có thể cao đến Phạm thiên. Thần thông tự tại, mắt nhìn thấy suốt, tai nghe rỗng suốt. Biết trước được lời nói, việc làm, ý nghĩ của các loài Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần, sâu bọ, tất cả đều thấy nghe biết hết. Các kẻ có tham dâm, không tham dâm; có sân hận, không sân hận; có ngư si, không ngu si; có ái dục, không ái dục; có chí hạnh lớn; không chí hạnh lớn, có hạnh trong ngoài, không có hạnh trong ngoài; có nghĩ lành, không có nghĩ lành; có nhất tâm, không có nhất tâm; có ý giải thoát, không có ý giải thoát, tất cả đều biết hết.
Bồ-tát xem xét năm đường trên trời, trong loài người, địa ngục, súc sinh, quỷ thần, cha mẹ đời trước, anh em, vợ con, tên tuổi, dòng họ nội ngoại, tất cả đều phân biệt rõ ràng. Sự việc một đời, mười đời, trăm ngàn ức vô số đời, cho đến thời gian thành trụ hoại không, rồi trở lại thành của trời đất. Có thể biết một kiếp, mười kiếp, cho đến trăm ngàn ức trong vô số ức kiếp về tên tuổi, dòng họ nội ngoại, ẩm thực, y phục, khổ vui, tuổi thọ dài ngắn, chết ở nơi này sinh ra ở nơi kia, qua lại trong các đường, kể từ lúc ban đầu khi mới sinh ra cho đến lúc lớn lên rồi già, chết, hình sắc tốt xấu, hiền ngu, vui khổ ở trong ba cõi, tất cả đều phân biệt biết hết. Thấy thần hồn của con người tùy theo hành động tạo tác của mình mà sinh vào trong năm đường, hoặc đọa vào loài ngạ quỷ, hoặc đọa trong loài súc sinh, hoặc làm quỷ thần, hoặc sinh lên trời, hoặc làm hình người. Có người được sinh trong gia đình giàu sang sung sướng, hoặc có người sinh trong gia đình bần cùng khốn khổ. Biết chúng sinh mê lầm, năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức tự ngăn che, đều quen theo năm món dục, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, bị ái dục lôi kéo; ham mê các thứ tiền của, sắc đẹp, nhớ tưởng, ước mong được an vui sung sướng. Từ đây sinh ra các tội ác; từ tội ác đưa đến khổ đau. Phải luôn đoạn trừ ái tập, không theo tâm dâm đến như lông tóc. Nhận lãnh thực hành Bát chánh đạo thời các khổ đều tiêu diệt. Những gì là tám? Đó là Chánh kiến, Chánh niệm, Chánh nghiệp, Chánh trí, Chánh phương tiện, Chánh ý, Chánh định.
Giống như không củi, không lửa, không cháy, không tắt. Đó gọi là đạo vô vi độ đời.
Bồ-tát tự biết đã bỏ gốc ác, không còn dâm, nộ, si, sinh tử đã diệt, các gốc rễ đã dứt sạch, không còn mầm móng tai họa; việc làm đã thành, trí tuệ đã đạt. Khi sao mai vừa xuất hiện, Ngài hoát nhiên đại ngộ, đắc đạo Vô thượng Chánh chân, làm Bậc Tối Chánh Giác, được mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật.
Mười lực của Phật là:
1. Phật thấy biết hết những điều sâu xa nhiệm mầu bí ẩn là đúng hay chẳng đúng, có giới hạn hay không giới hạn, thấy rõ đúng như thật.
2. Phật biết rõ tất cả những việc đã làm và chỗ nhận lãnh quả báo ở quá khứ, hiện tại, vị lai..
3. Phật hay mở bày, chỉ dạy về môn thiền định giải thoát chánh thọ.
4. Phật phân biệt biết rõ các ý nghĩ sai khác của trời, người và chúng sinh.
5. Phật biết rõ bao nhiêu ngôn ngữ của chúng sinh và ngôn ngữ siêu thế gian. J
6. Phật biết rõ tất cả các chủng loại và vô lượng hình thái trong thế gian.
7. Phật biết dục trói và biết cần làm những việc để tháo bỏ sự trói buộc dục.
8. Trí của Phật như biển, lời lành vô lượng, biết rõ tất cả những hoạt động trong đời trước.
9. Phật với Thiên nhãn thanh tịnh thấy rõ con người khi mới chết, thần hồn thác sinh thọ quả báo, tùy theo hình động thiện, ác, họa, phước.
10. Phật đã dứt sạch các lậu hoặc, không còn bị trói buộc, dính mắc, tinh thần minh mẫn, trí tuệ sáng suốt, tự biết đã chứng ngộ, đạo hạnh thông suốt cùng tột. Việc làm đã làm xong, không còn sinh tử nữa, trí tuệ sáng suốt.
Đó là mười lực của Phật.
Bốn vô sở úy của Phật là:
1. Phật với thần thông trí tuệ của Bậc Chánh Giác, không có việc gì là Ngài không thấy, không biết, người ngu vì mê lầm nên cho rằng Phật chưa biết hết. Đến như Phạm, Ma, các Thánh còn chưa có thể bàn bạc về trí tuệ của Phật. Ngài một mình đi đến đâu cũng không hề sợ hãi. Đó là điều vô úy thứ nhất.
2. Phật với các lậu đã hết, trí biết khắp tất cả. Người ngu vì mê lầm nên cho rằng Phật chưa hết các lậu. Đến như chư Phạm, Ma các Thánh còn không thể luận bàn về trí tuệ của Phật. Ngài một mình đi đến đâu cũng không hề sợ hãi. Đó là điều vô úy thứ hai.
3. Đức Phật thuyết giới kinh cho mọi người học tập. Người ngu si nói với nhau: Kinh Phật không phổ biến. Đến như chư Phạm, Ma, các Thánh còn chẳng có thể bàn bạc, chê bai chánh kinh của Phật. Ngài một mình đi đến đâu cũng không hề sợ hãi. Đó là điều vô úy thứ ba.
4. Phật biểu hiện đạo nghĩa, nói lời chân thật, cốt yếu là độ mọi người vượt được khổ ách. Người ngu vì mê lầm nên nói với nhau: Lời Phật dạy không có thể vượt được khổ ách. Đến như chư Phạm, ma, các Thánh còn chẳng có thể bàn bạc về đạo nghĩa chân chánh của Phật. Ngài một mình đi đến đâu cũng không hề sợ hãi. Đó là điều vô úy thứ tư.
Mười tám pháp bất cộng từ khi Ngài mới chứng được đạo quả Phật cho đến lúc nhập Niết-bàn:
1. Không mất đạo lý.
2. Không nói suông.
3. Không thất niệm.
4. Không có tâm ý không trong sạch.
5. Không có loạn tưởng.
6. Luôn luôn tỉnh táo.
7. Chí đạt không giảm.
8. Tinh tấn không giảm.
9. Định ý không giảm.
10. Trí tuệ không giảm.
11. Giải thoát không giảm.
12. Giải thoát tri kiến không giảm.
13. Thấy biết hết tất cả những việc trong đời quá khứ.
14. Thấy biết hết tất cả những việc trong đời vị lai.
15. Thấy biết hết tất cả những việc trong đời hiện tại.
16. Lãnh đạo cả chúng, dùng thân hành giáo hóa dắt dìu để chứng đạt được đạo quả.
17. Lãnh đạo cả chúng, dùng ngôn hành giáo hóa dắt dìu để chứng đạt được đạo quả.
18. Lãnh đạo cả chúng, dùng ý hành giáo hóa dắt dìu để chứng đạt được đạo quả.
Đó là mười tám pháp bất cộng.
Phật chứng đắc đạo ý Nhất thiết tri kiến, ngồi dưới gốc cây tự nghĩ: “Thật là hết sức nhiệm mầu, khó biết, khó hiểu, rất khó đạt được. Cao không cùng tột, rộng không giới hạn, sâu thẳm vô cùng, sâu xa không thể lường, lớn bao trời đất, nhỏ không chỗ vào. Xưa kia Đức Phật Đăng Quang thọ ký cho Ta làm Phật hiệu là Thích-ca Văn, ngày nay đạt được quả vị đó. Từ vô số kiếp cần khổ cầu đạt, nay mới đạt được. Tự nhớ nghĩ các việc làm ở đời trước: Đạo đức, từ hiếu, nhân nghĩa, lễ tín, trung chánh, giữ chân, hư tâm, học đạo Thánh hiền, ý thanh tịnh, nhu hòa, tu hạnh lục Độ vô cực: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ. Tu hạnh Tứ đẳng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Đối với bốn ân tùy thời cúng dường. Nuôi dưỡng chúng sinh, thương như con đỏ, làm việc làm của chư Phật, chứa nhóm công đức vô lượng. Nhiều kiếp cần khổ, không hề uổng công, nay nhận được tất cả, vui mừng tự khen:
Nay biết Phật tôn quý
Bỏ dâm, sạch các lậu
Sẽ dẫn đường tất cả
Theo Ngài ắt yên vui
Quả phước vui của trời
Nguyện tốt đã thành tựu
Mau chóng được Thượng Tịch
Ta sẽ vào Niết-bàn.
***
Phẩm 20: CHƯ THIÊN CHÚC MỪNG PHẬT THÀNH ĐẠO
Bấy giờ, Thiên vương cõi Dục đi đến, thấy đức Như Lai ngồi ở dưới gốc cây, đã đạt thần thông, ước nguyện hoàn mãn, hàng phục ma oán, dựng cờ phướn lớn, Từ bi vô lượng, làm đại Y vương chữa trị bệnh hoạn cho chúng sinh, là loài Sư tử vô song, đối với người sợ sệt, không run sợ, điều hòa tâm ý, diệt trừ tam cấu, thành tựu trí tam đạt, vượt khỏi bốn dòng, giữ gìn mối đạo, cứu giúp ba cõi, phạm hạnh thanh tịnh, dứt trừ các sự xấu ác. Đó là Tỳ kheo dứt trừ các sự ngu muội tăm tối.
Thế nào gọi là Sa môn?
Vượt khỏi sáu đường, học rộng không giới hạn, gọi là rộng nghe nhiều, đạo đức tiêu diệt trần lao, thành bậc dũng mãnh, vượt qua bờ bên kia, gọi đó là người có năng lực. Tóm thâu mười lực đầy đủ pháp bảo. Thiên vương thấy Đức Như Lai ngồi ở dưới gốc cây dùng kệ khen ngợi:
Nay dưới cây Bồ-đề
Hàng phục ma quyến thuộc
Vững chắc như Tu-di
Không sợ, không bỏ đi
Từ vô số ức kiếp
Học thí, giới, trí tuệ
Nhóm họp học nghĩa đạo
Cũng vô số ức kiếp
Việc làm trên Thích, Phạm
Vốn mong cầu Phật đạo
Vô số kiếp hành nhẫn
Nhận chịu bao khổ não
Nên sáng màu vàng ròng
Vô số kiếp tinh tấn
Vượt qua nạn sinh tử
Cho nên hàng phục ma
Từ vô số ức kiếp
Hành thiền, thần thông, tuệ
Phụng sự vô số Phật
Cho nên được cúng dường
Từ vô số ức kiếp
Chí thành trí tuệ rộng
Cứu giúp ức chúng sinh
Nên mau được quả Phật
Nhân hàng phục ma thân
Cũng xa lìa ma tử
Trừ bỏ ma dục trần
Nên chẳng còn lo buồn
Đây là trời trong trời
Chỗ chư Thiên phụng sự
Ba cõi kính, cúng dường
Làm ruộng phước vô lượng
Tiêu hết vi tế hoặc
Đắc Phật thành Thế Tôn
Bèn đến ngồi đạo tràng
Tướng đảnh không trông thấy
Tướng giữa mày chiếu sáng
Vô số ức cõi Phật
Làm mờ ánh nhật nguyệt
Khiến gặp ánh sáng đạo
Nhan sắc rất đặc biệt
Nhan sắc đứng hàng đầu
Tướng tốt thương chúng sinh
Ba cõi cùng phụng sự
Mắt Ngài rất thanh tịnh
Thấy vô số chư Phật
Quốc độ các sinh thân
Được nghĩ nhớ trong tâm
Tâm Ngài rất thanh tịnh
Nghe vô số âm thanh
Chư Thiên, dân chúng nói
Âm vang Phật giảng pháp
Nay được lưỡi rộng dài
Biết thời, nói êm ái
Nên nghe chánh pháp này
Đạt cam lộ vô vi
Ngài thấy binh chúng ma
Vui vẻ không sợ hãi
Lại thấy các Thiên nhân
Không vui, như Tu-di
Thấy các binh chúng ma
Ngài vững vàng bất động
Tuy ma ôm lòng hại
Mạnh mẽ hàng phục Ngài
Chỗ ngồi không dời đổi
Thân Ngài không chao động
Không vui cũng không giận
Khi ấy không gặp nạn
Chư Thiên, người thế gian
Chắc chắn được lợi lành
Mau được nghe chánh pháp
Liền chí thành phụng hành
Thường tạo các công huân
Nhờ phước đức tối thắng
Việc làm mau thành tựu
Vắng lặng Bậc tinh anh
Đạo sư quý giữa người
Sẽ mau thành Chánh giác
Chấn động ức cõi nước
Hàng phục các quân ma
Tiếng Ngài như Phạm thiên
Cũng như tiếng chim loan
Là đệ nhất hương thơm
Cù-đàm thuyết kệ này:
Phước báo rất an vui
Trừ tất cả buồn lo
Sở nguyện được thành tựu
Người mà có công đức
Mau đến được Phật đạo
Liền hàng phục chúng ma
Mau được sự mát mẻ
Điềm tĩnh khéo diệt độ
Cho nên người phước gì
Tạo lập hạnh tri túc
Để nghe pháp cam lộ
Ai hiện đang biếng nhác
Ở giữa chốn rừng sâu
Ai có ý thoái lui
Lợi ích cho muôn dân
Thường phụng hành tinh tấn
Ai theo hạnh Bồ-tát
Vì người bèn quay về
Tạo việc làm cúng dường
Đã thành tựu cõi nước
Gương sáng phẳng như tay
Liền ngay nơi cõi ấy
Trăm ngàn hoa lá sen
Tự nhiên cùng sáng chói
Trăm ngàn ức chư Thiên
Đến thấy đạo tràng Phật
Đều do xong công huân
Như biển không giới hạn
Hàng phục thế lực ma
Đạt pháp môn cam lộ
Đều cúi đầu làm lễ
Quy mạng Đức Như Lai
Dùng vô số thanh tịnh
Cùng cầm các lọng thơm
Để nhìn thấy Sư tử
Oai thần Phật biến hóa
Liền phát Bồ-tát ý
Chỗ đứng không thể động
Lời nói có tiếng tăm
Như biển không thể lường
Vững như núi Tu-di
Là vua trong các núi
Chấp hai tay làm lễ
Trên không phát tiếng Phạm
Nhân trung Thánh cũng vậy
Nơi chỗ tòa Sư tử
Trăm ngàn các cây cối
Cúi rạp hướng đạo tràng
Trăm ngàn ánh sáng đó
Chấn động ức cõi nước
Diệt hết các đường ác
Các nạn đều vắng lặng
Người không thể vượt qua
Người bệnh đều được chữa
Chí chân trong loài người
Ngồi nơi tòa sư tử
Oai thần Phật biến hóa
Giống như ánh minh châu
Tự nhiên có ánh sáng
Và ánh sáng nhật nguyệt
Giữa mày phóng hào quang
Làm mờ ánh sáng kia
Chiếu soi khắp ba cõi
Không thể thấy đảnh Phật
Thế Tôn hùng như vậy .
Ngồi nơi tòa sư tử
Hiện các loại thần thông
Người đến đều thấy hết
Tự nhiên kính thờ Phật
Đất chấn động sáu cách
Giả sử không bỏ binh
Dùng phương tiện cảm hóa
Nếu không bỏ binh trượng
Sẽ gặp các não hại
Tôn sư tử như vậy
Nơi tòa hiện cảm ứng.
Bấy giờ trời Tịnh cư, trời Phạm Ca-di, trời Thiện Phạm và con của Ma là Kính Đạo đồng đi đến chỗ Phật, cầm lọng báu lớn để dâng lên Phật, liền chắp tay dùng kệ tán thán:
Nhân Tôn ngay trước mắt
Sức tinh tấn, thiền, tuệ
Trước ma hiển hùng biện
Thánh đã hàng phục ma
Tất cả đều an lành
Ngài ngồi, thân bất động
Vô số ức ma đến
Cúi đầu lễ Thế Tôn
Nhiều như cát sông Hằng
Không bằng Đấng Chí Tôn
Không thể làm dao động
Giống như hằng sa kiếp
Thờ vô số ức ngàn
Đạo lý được đặt ra
Không dám phá Năng Nhân
Việc làm không thể kịp
Từng bố thí vợ con
Nam nữ và tôi tớ
Ruộng vườn và quốc ấp
Ngôi vua, đồ trang sức
Tay chân và đầu mặt
Các sở hữu trong thân
Để thực hành đạo vậy
Nhân từ không mê hoặc
Như lời Ngài đã nói
Lời nói không thay đổi
Phật không đắm quả lớn
Sẽ độ vô số chúng
Ức lớp vượt dòng xiết
Sức thiền định, thần túc
Hàng phục, tịnh chánh pháp
Nguyện độ hết chúng sinh
Cho mắt đời tối tăm
Khiến hòa khắp tất cả
Một lòng mong trí lớn
Tập hợp theo Đạo Sư
Chí Ngài rộng không lường
Không ai không khen ngợi
Như vậy hàng quân ma
Sớm thành Nhất thiết trí.
Con của Ma khen ngợi Phật như vậy xong rồi lui đứng qua một bên.
Bấy giờ trời Hóa tự tại, trời Vô kiêu lạc, trời Đâu-suất, trời Diễm-ma, trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương, trời Hư không, trời Địa thần cúng dường Đức Thế Tôn, hết thảy đều rất trang nghiêm. Tất cả trời đất rải hoa, đốt hương, dựng các cờ, lọng, đều cùng quy mạng Đấng Chí Tôn, dùng kệ khen ngợi:
Các trời Hóa tự tại
Vô kiêu lạc, Đâu-suất
Diễm, Đao-lợi, Tứ vương
Đều đến cúng dường Phật
Vững chắc như kim cang
Ở nơi ba ngàn cõi
Chí vững không thể phá
Ngay nơi Phật đạo tràng
Dầu cho thịt da tiêu
Xương tủy sạch không còn
Nếu không thành Phật đạo
Không bao giờ rời đây
Nhân sư tử tuyên bố
Tất cả ba ngàn cõi
Thề nguyện lập oai thần
Cỏ cây đều làm binh
Hùng mạnh không suy yếu
Đi đến chỗ Bồ-tát
Ta nguyện ức cõi nước
Bằng phẳng không có nạn
Chúng ta, các thần đất
Đều đến, được lợi lành
Và khiến Bậc Tối Tôn
Bước chân đi trên ta
Ngài ở đời dũng mãnh
Không đâu không chiếu sáng
Chiếu sáng khắp tất cả
Giúp đỡ ba ngàn cõi
Huống là với thân ta
Phương dưới trăm ngàn ức
Đều cùng một phẩm loại
Độ khắp các chứng sinh
Dựng xây nên cơ nghiệp
Chúng ta giữ đất này
Và khắp ba ngàn cõi
Đều cùng được nguyện trên
Tùy thích, dược ăn uống
Nếu có vượt cảnh giới
Chỗ ở được an ổn
Đệ tử của chư Phật
Chư Thanh văn Cù-đàm
Khi diễn giảng đạo pháp
Nếu có người đến nghe
Tất cả các công đức
Đều khuyên giúp Phật đạo.
Trời Phạm, trời Hóa tự tại, trời Vô kiêu lạc, trời Đâu-suất, trời Diễm-ma, trời Đao-lợi, Tứ Thiên vương, trời Hư không, trời Địa thần, cúng dường tán thán Phật xong, lui đứng một bên.
***
Phẩm 21: QUÁN SÁT CÂY
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Khi Bồ-tát đã thành tựu quả vị Chánh giác, chư Thiên đi đến ca ngợi Phật xong, Như Lai ngồi ngay ngắn, nhất tâm chăm chú nhìn cây Bồ-đề, mắt không hề chớp. Thiền duyệt làm thức ăn, giải tuệ làm thức uống, an ổn không hề tổn hại. Suốt bảy ngày đêm nhìn cây Bồ-đề nơi đạo tràng để báo ân cây. Qua bảy ngày xong, Thiên nhân cõi Dục, mỗi người mang theo một vạn bình nước thơm, Thiên nhân cõi sắc cũng mang theo nước thơm tắm rửa Ngài như vậy, tất cả cùng đi đến chỗ Phật, dùng vô số các loại hương thơm tắm rửa Phật trước tiên. Chư Thiên, Long thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma- hưu-lặc dùng nước thơm tắm thân Như Lai. Nước thơm chảy tràn đầy, văng ướt những người này. Nhờ ân nước thơm, đều phát ý đạo Vô thượng Chánh chân.
Bấy giờ chúng sinh đều nhờ ân hương xông, hương thơm không rời thân thể. Khi ấy các Thiên tử trở vào cung điện, không còn nghe mùi hương thơm nào khác.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Có một Thiên tử tên là Phổ Hóa, gieo mình sát chân Phật rồi ngồi dậy chắp tay bạch hỏi Phật:
-Phật ngồi bên gốc cây Bồ-đề trong suốt bảy ngày, là ngồi thiền định Tam-muội, vậy định đó tên là gì?
Đức Thê Tôn dạy:
-Định đó tên là Duyệt thực. Đức Như Lai dùng Duyệt thực định ý này suốt bảy ngày đêm nhìn cây Bồ-đề không chớp mắt.
Khi ấy Thiên tử Phổ Hóa dùng kệ khen ngợi.
Luôn phụng hành các hạnh
Thiền duyệt sinh oai lực
Khiến ma mất đường đi
Tự gieo mình lạy Phật
Về nương dưới chân Ngài
Với tâm niệm vui mừng
Bấy giờ các Thiên tử
Cũng vui mừng khôn xiết
Các Thiên nhân tịch định
Nếu biết chủng tánh ấy
Thì hết dâm, nộ, si
Trí tuệ sâu vô cùng
Trừ nghi của Thiên nhân
Cớ sao có mười lực
Biết rõ thấu mười phương
Và các pháp giải thoát
Thương xót, luôn bảy ngày
Ý sạch như hư không
Ngồi yên thật bất động
Nhìn cây không chớp mắt?
Bậc Sư Tử tôn quý
Cớ sao ngồi bảy ngày
Nhìn ngắm mãi cây này
Cho nên lặng dấu vết?
Từ nơi chỗ lập nguyện
Sư tử vì tất cả
Đạt được chỗ bản nguyện
Ngồi yên không đứng dậy
Giúp cho tâm Thế Tôn
Ngay chỗ ngồi an ổn
Đấng Thập Lực như vậy
Vâng hành các lời dạy
Biết gốc ngọn Thiên nhân
Sở nguyện của đời trước
Nghe kinh điển chỉ dạy
Luôn tuân lời dạy bảo
Đấng Thập Lực như vậy
Không sợ, nguyện đầy đủ
Cho nên ngồi bảy ngày
Không hề rời khỏi tòa
Dũng mãnh chỉ quán cây
Hàng phục được tất cả
Bình đẳng ngồi đạo tràng
Diệt trừ các trần lao
Thanh tịnh và sâu xa
Do vậy an chúng sinh
Bởi đó nên xuất gia
Thực hành pháp chân chánh
Xa lìa các tỳ vết
Không còn những sợ sệt
Nên thành tựu Thánh chúng
Không tạo hạnh phi pháp
Năng nhẫn, ân, ái, hữu
Và các vô minh hành
Chặt gốc rễ các kết
Xem chúng như bụi đất
Thấy chúng sinh từ lâu
Vì chấp ngã ngã sở
Chìm đắm trong ấm cái
Ta biết là trừ hết
Từ xưa chứa hạnh này
Tấp bến bờ mê hoặc
Rốt ráo các ấm cái
Dùng tuệ trừ sạch ngã
Ta đoạn dục sân hận
Chúng sinh trong ngu mê
Như trăng ở trong nước
Ta dẹp khiến không còn
Hạnh ấy không náo loạn
Trong ý tự hiểu rõ
Xưa kia đã hàng phục
Tất cả đều dứt sạch
Hiện tại vì các ngươi
Chứa si, đọa ngục lớn
Phật nhổ sạch tất cả
Không còn trở lại đây
Đã trừ các ấm cái
Giúp diệt gốc ấm cái
Tiêu diệt bốn điên đảo
Chữa sạch hết không còn
Các tưởng này nghĩ quấy
Ta biết gốc kinh pháp
Nên khiến diệt trừ sạch
Không còn chuyển lại nữa
Thân khổ sáu mươi lăm
Lỗi có ba mươi cấu
Hiện tại có bốn mươi
Sinh ra có mười sáu
Hiện tại có mười tám
Như vậy hai mươi lăm
Ở đạo tràng dứt hết
Thánh tài có mười hai
Người sợ, hai mươi tám
Ta do vượt nghiệp đây
Sức tinh tấn vượt qua
Giác ngộ rồi, không lui
Phân biệt năm trăm việc
Ta đã thông suốt hết
Trăm ngàn pháp xưa kia
Dứt sạch các kiết này
Chín mươi tám nguồn gốc
Đầy đủ các nơi chốn
Chỗ chúng sinh nương gá
Dứt nghỉ các thói quen
Lưới tà kiến ngu tối
Cạn bốn sông trần lao
Khiến không còn tự tại.
Đức Thế Tôn thuyết pháp ban tuyên ngôn giáo. Ngài dạy phải bỏ tham dục, nịnh hót và cái ngã của mình. Chí của Ngài sáng suốt bao la. Thương xót cuộc đời, Ngài dùng luật chính là để hướng dẫn cách nhổ phăng tất cả tham lam, để cho các hàng đệ tử tiêu trừ hạnh tà vạy, phụng thờ hạnh chân chánh, trừ các tiếng tăm, tinh tấn diệt hết phiền não, vượt qua được bến bờ sinh tử, khiến cho không còn cái ngã của mình. Công huân thiền định đem lại định ý, vượt qua bốn dòng nước dốc, và các nghiệp ưu, kết, tự đại, phóng dật, hàng phục những việc này, làm cho vĩnh viễn không còn. Do chân chánh cho nên đem lại định ý, chế ngự trần lao, tiêu các vọng tưởng, giống như nhổ bậc rễ cây. Ý chí vượt qua bờ bên kia làm cho hết thảy không còn, dứt bỏ nơi chốn, rống tiếng sư tử, sức lực rất lớn. Tự tại trong ba cõi, không phụ thuộc gì, cảnh giới đều diệt, dùng thiền minh trí cắt bỏ oán thù, giống như Thiên đế làm cho các tội lỗi như mạng lưới của mình đều dứt hết.
Ngài dùng ba mươi sáu hạnh tinh tấn, ở ngay giữa cuộc đời dùng binh lực trí tuệ dứt tuyệt hết ái. Đó chính là các cội rễ trần lao trói buộc, dính mắc, là gốc độc khổ cùng tột. Ngài dùng sức trí tuệ sáng suốt cắt sạch không còn. Dùng mắt trí khéo sửa trị làm cho thanh tịnh.
Những người chân chánh, Ngài dùng oai lực của thuốc minh để trị bệnh vô minh, khiến cho cây si to lớn không còn gốc rễ. Ngay nơi cảnh giới này thực hành hết sức chí thành. Ngài dùng tâm phá hủy đất chết sân giận. Tâm ý ưa thích việc khác, thì đó là oán tặc.
Ta múc khô cạn mười hai biển để dập tắt khói lửa của cảnh giới tư tưởng, hiển chiếu tam đạt, diệt các trần cấu, đốt sáng ngọn lửa, thích cửa giải thoát, tiêu sạch tỳ vết cho nên dạy bảo; an ủi tất cả, bỏ tưởng gai góc, rỗng không âm vang. Hiểu rõ tinh tấn, cầu sự thanh tịnh. Giống như cọ cây phát ra lửa sáng.
Lại, như suối nguồn, tâm Ngài vắng lặng. Ngài dùng binh lực trí tuệ dẹp sạch tâm nhơ nhớp, đem lại định ý, gọi đó là cầm cờ, vâng giữ lời dạy bảo. Tự mình có thể hiểu rõ, hàng phục xong mọi việc, đem lại từ tâm. Nhân năm món dục này mà biết được sự giàu sang và trụ nơi các hạnh, vứt đi sự dối trá. Từ nơi gốc mà khởi trần lao, đó là chỗ của các kết chướng ngại, đánh nhau không hòa. Ta rõ suốt tất cả, đạt được định Tam-muội, biết hết những việc bên trong, xây dựng sự hổ thẹn; hữu tưởng, vô tưởng, từ đó mà đạt được; thâu hoạch được tất cả hạnh này, rõ suốt những gì mình có, vứt bỏ hết thảy tư tưởng tất cả sự trói buộc. Người thực hành như vậy, vứt bỏ không còn gì?
Dùng đức tinh tấn mà hàng phục tất cả, đạt được ba môn giải thoát. Do vì lẽ ấy, không vì không có duyên mà tưởng hạ liệt, vui, vô thường, chỉ là cái ngã của mình nhưng cái gốc tạo tưởng, cầu sáu suy thì ở dưới gốc cây Bồ-đề, ta dứt trừ hết. Tất cả những sự vô thường này là sự uế trược rộng lớn. Dùng minh đạt của bậc Thánh tiêu trừ các ái dục, vượt hơn cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Người ôm lòng ái dục như lơ lửng trên không; hiểu rõ tam đạt, nhan mạo đẹp đẽ tuyệt vời dứt hẳn sinh tử, vượt qua biển lớn. Do sức tinh tấn cho nên vượt qua dâm, nộ, si. Dùng hạnh vi diệu chặc đứt ngã chấp. Sáu độ vô cực, tiêu ức trần lao, ý dứt các khổ trong đường sinh tử. Bấy giờ thích đoạn cả trước sau, không rơi vào nhị biên, bình đẳng đối với tất cả, đã đạt giải thoát. Các chúng tà kiến dị học đạt được cam lộ, không còn một ai, dứt trừ hết gốc rễ sinh tử, bốn đại không còn, cũng hết các nhập, cầu trí tuệ báu được nhiều vô số. Sự sáng suốt quý báo của đạo là đưa đến vô sở úy, là sự an lạc nội tại của vô lượng Phật. Ít mong cầu, làm đúng sự giáo hóa, phân biệt nguồn gốc, những việc làm ở đời trước thì ta biết rõ. Bởi do trong hàng ức kiếp từng bố thí nhiều châu báu và vô số và cam lộ cho nên thông suốt: môn học này. Ưa hạnh mềm mỏng, nghe vô số lời dạy về pháp ở đời, cũng lại phân tích duyên khởi là cùng sinh, cùng diệt; tâm khởi ý động như ngựa đồng hoang. Mắt ta thanh tịnh sáng đẹp, nhìn thấu mười phương. Xem thấy tất cả chúng sinh như hạt trái cây trong lòng bàn tay. Việc làm ở đời trước lại cũng rõ ràng như thế. Trong hàng ức kiếp đã tu các độ vô cực, hiểu hết cái không thật của niệm; biết bao lần tỉnh giác cái nghiệp điên đảo mà trong quá khứ chư Thiên đã từng tranh cãi, hễ kia có như thế thì đây cũng vậy.
Bấy giờ ta đã đến nơi bất tử. Sở dĩ người có Thập lực thực hành từ tâm, là vì thương nhớ chúng sinh cho nên hành Từ lực. Nay ta đã đạt pháp cam lộ nên với Thập lực, hành Bi lực giáo hóa tất cả. Vì vậy cho nên khiến ta ở trong pháp cam lộ thường thực hành Hộ (xả) lực, hàng phục tất cả. Do sự giáo hóa này ta đi vào cõi bất tử. Sở dĩ thực hành tâm hỷ là làm vui tất cả. Vì vậy Hỷ lực hàng phục tất cả. Thế nên xây dựng và ở trong pháp cam lộ. Nhớ nghĩ mười lực trải qua kiếp số nhiều như cát sông Hằng, gặp chư Phật trong quá khứ và cúng dường các Ngài, vì lẽ ấy được ở trong pháp cam lộ. Ta vốn có lời thề nguyện: “Nếu không hàng phục được ma quân, không giáo hóa tà kiến thì ta không rời chỗ ngồi”. Ta không buông lung, vượt qua bờ bên kia, phá tan mạng lưới si mê từ vô số kiếp, trụ trí Kim cang để đến Thập lực, không hề dính mắc. Hàng phục các lậu hoặc, làm cho không còn. Đạt được lực đó mới rời chỗ ngồi. Tắm rửa sạch sẽ, không còn nhơ nhớp; bây giờ Đấng Thập Lực Hộ Thế tự tại vượt qua bờ kia của ba ngàn thế giới.
Vững chắc như kim cang, thường tu hạnh bình đẳng. Ngàn ức chư Thiên cúng dường vô lượng và các ngọc nữ không thể kể xiết.
Phật tử như vậy đều có nhân duyên, ngồi tòa Hiền thánh được tự tại lớn.
Ngàn bình báu dưới gốc cây đựng vô số nước thơm để tắm rửa Đấng Hộ Thế. Ba ngàn thế giới do vậy được tự tại. Phật tử như vậy đều có nhân duyên.
Sở dĩ suốt bảy ngày đêm Bồ-tát không rời tòa ngồi, chăm chú nhìn cây, vì bảy ngày đêm đó nhìn cây Bồ-đề, Ngài cảm hóa bảy mươi ức người khiến họ phát khởi đạo tâm. Suy nghĩ vắng lặng. Đất chấn động sáu cách.
Bấy giờ Đức Phật từ tòa sư tử đứng dậy, tâm Ngài an vui, thân Ngài nhẹ nhàng thoải mái, là việc đúng lúc, ngay nơi đạo tràng nhìn cây Bồ-đề, giống như sư tử, không hề có sự sợ hãi, thiền tư pháp môn giải thoát, hạnh của Hiền thánh.
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






